6 câu hỏi về ý thức cùng Annaka Harris
Cuộc trò chuyện với Annaka Harris về tri giác chung, khoa học thực nghiệm và tại sao trực giác của chúng ta về ý thức là sai.
| 9 phút đọc | lượt xem.
Cuộc trò chuyện với Annaka Harris về tri giác chung, khoa học thực nghiệm và tại sao trực giác của chúng ta về ý thức là sai.
Khi còn nhỏ, Annaka Harris đã có một tâm trí luôn khao khát tìm tòi – và những cơn đau nửa đầu khủng khiếp. Chính điều đó đã dẫn bà đến niềm quan tâm về một chủ đề sẽ gắn bó với sự nghiệp của mình: ý thức. Tôi từng tập trung rất nhiều vào không gian và thời gian cũng như sự méo mó trong tri giác về sự vật – bà nói. Tôi bắt đầu thực hành một dạng thiền định trên cơn đau, kiểu như cố gắng tiếp cận nó gần hơn, và rồi tôi nhận ra rằng mình chẳng thể định vị nó trong không gian.
Cũng vào khoảng thời gian đó, bà bắt đầu quan tâm đến toán học và vật lý. Cha bà mắc bệnh tâm thần, và cả hai có một mối quan hệ khó khăn. Nhưng họ đã kết nối với nhau thông qua việc cùng xem các bài giảng và đọc những cuốn sách khoa học phổ thông. Đó – bà nói – là điều đẹp đẽ mà ông đã trao cho tôi.
Ngày nay, Harris không chỉ đọc sách khoa học phổ thông. Bà là tác giả của cuốn Conscious: A Brief Guide to the Fundamental Mystery of the Mind (Ý thức: Hướng dẫn ngắn gọn về bí ẩn nền tảng của tâm trí) – từng nằm trong danh sách bán chạy nhất của New York Times vào năm 2019. Gần đây, bà cũng phát hành bộ phim tài liệu được đánh giá cao Lights On: How Understanding Consciousness Helps Us Understand the Universe (Thắp sáng: Hiểu ý thức giúp chúng ta hiểu Vũ trụ). Trong cả hai tác phẩm, Harris khám phá những ranh giới của khoa học thần kinh, vật lý và nhiều lĩnh vực khác, đồng thời cố gắng trả lời những câu hỏi hóc búa về tâm trí đã ám ảnh bà từ thuở nhỏ.
Người viết đã có buổi trò chuyện cùng Harris về tri giác chung, khoa học thực nghiệm và tại sao trực giác của chúng ta về ý thức là sai.
Bà bắt đầu viết về ý thức như thế nào?
Tôi từng điều hành một công ty nhiếp ảnh, và trước đó tôi là một vũ công chuyên nghiệp. Sau đó, tôi bắt đầu làm việc với các nhà thần kinh học. Tôi đã dành khoảng 20 năm giúp họ khiến công trình của mình dễ tiếp cận hơn thông qua viết thuê và huấn luyện thuyết trình. Điều này bắt đầu nhờ mối quan hệ của tôi với chồng, Sam Harris, người đang làm tiến sĩ thần kinh học khi chúng tôi gặp nhau.
Thông qua công việc với các nhà khoa học, tôi nhận ra những nghiên cứu đó có mối liên hệ sâu sắc với các câu hỏi cá nhân của mình. Nhưng tôi cũng nhận thấy rằng các nhà thần kinh học và vật lý học lại không chia sẻ ý tưởng cho nhau. Tôi thường trở thành cầu nối giữa hai lĩnh vực này. Và điều đó đã khiến tôi muốn chính thức bắt đầu suy nghĩ và viết về ý thức.
Nhiều nhà nghiên cứu tin rằng ý thức chỉ là sự phức tạp của tính toán thần kinh. Nhưng trong các tác phẩm của mình, bà đã cố gắng đi xa hơn cách nghĩ chuẩn mực đó. Vì sao?
Chúng ta đã có bằng chứng khoa học cho thấy trực giác của mình về ý thức là sai, nhưng các nhà khoa học vẫn tiếp tục làm việc như thể những trực giác đó là đúng. Nó giống như việc tiếp tục giả định rằng Mặt Trời quay quanh Trái Đất, ngay cả khi chúng ta đã khám phá ra điều ngược lại, chỉ vì nó trông như vậy.
Chúng ta vẫn đang làm khoa học dựa trên các giả định lỗi thời – những giả định bắt nguồn từ các trực giác sai lầm, dẫn đến niềm tin rằng ý thức chỉ phát sinh từ sự phức tạp. Nhưng chúng ta không có bằng chứng trực tiếp nào cho thấy ý thức nảy sinh từ sự phức tạp. Chúng ta giả định như vậy chỉ vì nó có vẻ đúng, dựa trên những gì hiện nay chúng ta biết là các ảo giác do bộ não tạo ra.
Bà từng lập luận rằng ý thức có thể là nền tảng – điều đó có nghĩa là gì?
Tôi không tin rằng tâm trí tạo ra vật chất, như cách thuyết duy tâm thường miêu tả. Không phải ý thức xuất hiện trước rồi tạo ra thế giới. Vấn đề là: vật chất vốn dĩ là ý thức ở mức cơ bản nhất. Đó chính là bản chất nội tại của nó.
Thuyết toàn tâm luận (panpsychism) thì lại chưa đi đủ xa đối với tôi. Nó mô tả ý thức như một thuộc tính của vật chất. Nhưng tôi lập luận rằng chúng ta sẽ gặp phải vấn đề khó của ý thức – câu hỏi tại sao và bằng cách nào trải nghiệm chủ quan nảy sinh – bất kể chúng ta đặt thời điểm xuất hiện của ý thức ở đâu trong thế giới vật lý. Vậy nên hợp lý hơn nếu coi ý thức là nền tảng ngay từ đầu.
Các thuật ngữ và khung lý thuyết như duy vật hay duy tâm vốn đã tồn tại hàng thế kỷ, và chúng không còn phù hợp một cách trọn vẹn với hiểu biết được cập nhật của chúng ta về thế giới sau hàng trăm năm học hỏi và khám phá khoa học.
Theo bà, bước tiến thú vị nhất hiện nay trong nghiên cứu khoa học về ý thức là gì?
Chúng ta đang bị giới hạn bởi khả năng giao tiếp – bởi ngôn ngữ và toán học. Nhưng điều gì sẽ xảy ra nếu chúng ta có thể học hỏi và truyền đạt thông tin thông qua những trải nghiệm ý thức hoàn toàn mới?
Ví dụ, một nghiên cứu đã cung cấp cho người tham gia một chiếc thắt lưng rung để chỉ hướng Bắc từ trường. Một người tham gia cho biết anh cảm thấy mình đã phát triển một giác quan hoàn toàn mới về định hướng. Anh ta có một cảm nhận trực giác về vị trí của mình trong không gian và mô tả tri giác về hướng đi giống như cách chúng ta nhận biết màu sắc – bạn không thể không nhận ra rằng bạn và người khác mặc cùng màu áo. Anh cũng nói rằng chuyển động trong không gian giờ đây có một chất lượng mới, có thể mang tính tích cực hoặc tiêu cực, giống như sự dễ chịu hay khó chịu của âm thanh hoặc mùi hương. Anh đặc biệt thích thú khi đi lên những cầu thang xoắn ốc.
Loại nghiên cứu này cho thấy chúng ta có thể phát triển hoàn toàn những giác quan mới. Hãy tưởng tượng nếu chúng ta có thể làm điều đó với những dạng thông tin khác. Nếu các nhà khoa học có thể truyền đạt trực giác của Einstein về thuyết tương đối rộng bằng trải nghiệm, thay vì chỉ giới hạn trong ngôn ngữ toán học và vật lý.
Bà nghĩ nghiên cứu này thay đổi cách chúng ta nhìn nhận ý thức như thế nào?
Từ trước đến nay, chúng ta đã làm khoa học dựa trên giả định rằng ý thức chỉ xuất hiện ở một mức độ xử lý thông tin nào đó. Nhưng nếu chúng ta khởi đầu từ giả định ngược lại – rằng ý thức là nền tảng và hiện hữu ở khắp nơi thì sao?
Thay vì coi trải nghiệm có ý thức như sản phẩm phụ (của những cấu hình vật chất vô thức), chúng ta sẽ coi nó là nền tảng. Điều đó có thể giúp chúng ta hiểu được những hiện tượng mà trước nay ta vẫn gặp khó khăn.
Không nhất thiết phải có bằng chứng rằng cây nắp ấm (Venus flytrap) hay màng sinh học (biofilm) có ý thức. Nhưng nếu chúng ta có thể tiếp cận các hệ thống đó ở cấp độ trải nghiệm, chúng ta có thể phát triển trực giác mới làm thay đổi toàn bộ khung lý thuyết của mình.
Dù con đường tiếp theo có là gì, bà dường như rất kiên định với khoa học như một phương tiện để tìm lời giải mới cho các câu hỏi này. Vì sao vậy?
Phương pháp khoa học là hệ thống duy nhất có khả năng tự hiệu chỉnh để mở rộng hiểu biết của chúng ta. Nó có những khiếm khuyết, nhưng nó cũng khiêm nhường. Nó mong đợi sẽ bị chứng minh là sai như một phần của tiến trình tìm ra sự thật. Và đó chính là điều khiến nó mạnh mẽ.
Thật hứng khởi khi nhận ra rằng một điều gì đó bạn tin chắc đến 99% lại hóa ra không đúng hoàn toàn – hoặc thậm chí hoàn toàn sai. Nó mở ra những câu hỏi mới và một sự hiểu biết sâu hơn. Nếu chúng ta sẵn sàng thừa nhận rằng mình đã đưa ra những giả định sai lầm và áp dụng công cụ một cách sáng tạo hơn, chúng ta có thể thật sự tiến xa. Chúng ta có thể bắt đầu nhìn thấy Vũ trụ đúng như nó vốn có – thậm chí có thể là có ý thức.
