Nhà văn Nguyễn Thi – Hiện thực Nam Bộ dữ dội
Nhà văn Nguyễn Thi (1928 – 1968), tên thật Nguyễn Hoàng Ca, còn có bút danh Nguyễn Ngọc Tấn, là cây bút tiêu biểu của văn học kháng chiến chống Mỹ.
| 22 phút đọc | lượt xem.
Nhà văn Nguyễn Thi (1928 – 1968), tên thật Nguyễn Hoàng Ca, còn có bút danh Nguyễn Ngọc Tấn, là một trong những cây bút tiêu biểu của văn học kháng chiến chống Mỹ.
Tiểu sử tác giả
Nhà văn Nguyễn Thi (1928 – 1968), tên thật Nguyễn Hoàng Ca, còn có bút danh Nguyễn Ngọc Tấn, là một trong những cây bút tiêu biểu của văn học kháng chiến chống Mỹ. Sinh ngày 16 – 5 – 1928 tại làng Quần Phương Thượng (nay là xã Hải Anh, huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định), ông lớn lên trong một gia đình có truyền thống văn hóa và cách mạng.
Cha ông là một nhà nho, sống bằng nghề dạy học ở làng. Mẹ ông là công nhân nhà máy Dệt Nam Định, đồng thời là cơ sở của chi bộ Đảng Nhà máy. Ngay từ nhỏ, Nguyễn Thi đã chứng kiến những khó khăn của cuộc sống và tinh thần cách mạng của gia đình. Mới hai tuổi, Nguyễn Thi đã phải theo mẹ vào tù do cơ sở cách mạng bị khủng bố sau phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh. Là con của người mẹ kế, bố mất khi mới 9 tuổi, cuộc đời ông từ sớm đã đầy gian nan và thử thách.
Giai đoạn hình thành (1928 – 1954)
15 tuổi ông vào Sài Gòn mưu sinh và tự học. Vì mưu sinh, ông phải theo một gánh hát vào Sài Gòn, ở với người anh cùng cha khác mẹ. Thời kỳ này, Nguyễn Thi phải đối mặt với cuộc sống khó khăn của một thanh niên xa quê, nhưng cũng là lúc ông bắt đầu tiếp xúc với môi trường văn hóa đô thị và hình thành ý thức cách mạng.
Cách mạng tháng Tám thành công, rồi kháng chiến toàn quốc bùng nổ, ông hăng hái tham gia vào đội du kích xã Thới Tứ (Hóc Môn), vào đơn vị cảm tử quân đầu tiên của Sài Gòn (trung đội Nguyễn Bình).

Do có tố chất nghệ sĩ nên ông được giao làm công tác tuyên huấn, đội trưởng đội văn công. Ông hăng say viết, vẽ tranh, soạn bài hát, dựng điệu múa… cho văn công phục vụ các đơn vị bộ đội. Đây chính là giai đoạn quan trọng trong sự nghiệp văn học của Nguyễn Thi, khi ông bắt đầu kết hợp hoạt động cách mạng với sáng tác văn học.
Nguyễn Thi được biết đến với tư cách là một nhà văn nhưng ông bắt đầu sự nghiệp văn chương của mình lại bằng làm thơ. Đó là khoảng thời gian từ năm 1946 đến năm 1953, ông sáng tác được trên một trăm bài thơ và hầu hết các bài thơ đó được phổ biến rộng rãi trong quần chúng.
Năm 1954, ông cưới vợ, một cô gái Sài Gòn, ra bưng biền tên là Bình Trang, rồi tập kết ra Bắc, để lại vợ và con gái Trang Thu ở miền Nam. Quyết định này đã ảnh hưởng sâu sắc đến cuộc đời và sáng tác của ông, khi phải chịu đựng nỗi đau chia cách với người thân trong suốt những năm tháng tiếp theo.
Thời kỳ trưởng thành (1954 – 1968)
Sau Hiệp định Giơ – ne – vơ 1954, Nguyễn Thi tập kết ra Bắc và về công tác tại Tạp chí Văn Nghệ Quân Đội. Tám năm ở miền Bắc, trong đại gia đình Văn nghệ Quân đội ở số 4 Lý Nam Đế (Hà Nội), từ đấy bút danh Nguyễn Ngọc Tấn mới thật là một cái tên quen bên cạnh những: Hữu Mai, Nguyễn Khải, Hồ Phương, Xuân Thiều, Trúc Hà…
Đây là giai đoạn ông chuyển hẳn sang sáng tác văn xuôi với bút danh Nguyễn Ngọc Tấn, cho ra đời một số truyện ngắn được dư luận chú ý như Im lặng, Đôi bạn, Trăng sáng…
Tuy nhiên khát vọng được trực tiếp cầm súng chiến đấu và nỗi nhớ thương vợ con (nhà văn có một người con gái ở Sài Gòn mà khi ông ra Bắc, vợ ông mới đang mang bầu) luôn thôi thúc ông trở lại Nam Bộ.
Và có phải là một sắp xếp của số phận không, lần này trở về Nam, Nguyễn Ngọc Tấn đã để lại hậu phương miền Bắc người vợ thứ hai, cũng vừa mới sinh một đứa con, có cái tên rồi trở thành bút danh mới của ông xuất hiện 3 năm sau: Nguyễn Thi. Năm 1962, ông quyết định trở lại miền Nam, bắt đầu giai đoạn quan trọng nhất trong sự nghiệp văn học và cách mạng của mình.
Và thế là năm 1962, ông đã trở lại miền Nam. Đây là đợt đi B đầu tiên của các nhà văn quân đội. Dù đảm trách cương vị Tổng biên tập Tạp chí nhưng ông thường xuyên xuống các đơn vị để cùng chiến đấu, sinh hoạt với bộ đội.
Kỉ vật duy nhất anh để lại là chiếc ba lô đựng toàn bản thảo đã được các anh trong Văn nghệ Giải phóng gửi ra Hà Nội. Đây chính là minh chứng cho tinh thần cống hiến và sự gắn bó của ông với sự nghiệp văn học cách mạng đến hơi thở cuối cùng.
Tác phẩm tiêu biểu
Sau này, Nguyễn Thi tập hợp những bài thơ đó vào hai tập, trong đó đáng chú ý hơn cả là tập đầu tiên Hương đồng nội (1950).
Thơ ca thời kỳ đầu
Tập thơ này thể hiện phong cách sáng tác độc đáo của Nguyễn Thi trong giai đoạn đầu, với những bài thơ tả chân (Realistic Poetry) về đời sống và con người trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Ông ghi lại những điều tai nghe, mắt thấy bằng những câu thơ tả chân.
Những bài thơ như Chợ và San bằng khu tạm chiếm đã khắc họa sinh động bức tranh đời sống nhân dân và bộ đội trong những ngày đầu kháng chiến với giọng điệu chân thực, gần gũi.
Phong cách thơ của Nguyễn Thi trong giai đoạn này mang đậm tính tự nhiên và chân thành, không cầu kỳ hay hoa mỹ mà tập trung vào việc ghi nhận và tái hiện cuộc sống một cách trực tiếp nhất. Những hình ảnh cụ thể, sinh động như:
Đây bầu, bí phơi mình xanh, trắng mập,
Đó thúng cà tim tím bóng soi nhau.
không chỉ thể hiện tài năng quan sát tinh tế mà còn cho thấy tình yêu đối với cuộc sống và con người của tác giả. Tập thơ Hương đồng nội đã được trao Giải thưởng Văn nghệ Cửu Long giang (Nam bộ, 1949 – 1950), khẳng định tài năng và vị trí của Nguyễn Thi trong làng văn học thời kỳ đầu.
Văn xuôi thời kỳ trưởng thành
Vẫn là sự chân thực và tinh tế trong quan sát, miêu tả cùng chất hóm hỉnh trong giọng điệu như những bài thơ viết trong thời kỳ kháng chiến ở Nam Bộ, Nguyễn Thi đã dần dần chiếm được tình cảm của người đọc cả nước.
Những truyện ngắn tiêu biểu như Im lặng, Đôi bạn, Trăng sáng đánh dấu sự chuyển mình quan trọng trong sáng tác của ông. Và truyện ngắn Im lặng (Văn nghệ Quân đội số 12 – 1957) như một hồi quang của nỗi niềm riêng ấy. Trong thiên truyện đầy ám ảnh của bóng tối và dông bão, của day dứt và vật lộn nội tâm này, người vợ ở miền Nam đã không thể yên ổn để chờ chồng.

Truyện ngắn này thể hiện phong cách viết nội tâm (Psychological Realism) sâu sắc của Nguyễn Thi, khi ông không chỉ miêu tả hiện thực bên ngoài mà còn khám phá thế giới tâm lý phức tạp của con người trong hoàn cảnh chiến tranh. Tác phẩm Im lặng đã trở thành một trong những kiệt tác về đề tài chia cách trong văn học Việt Nam, thể hiện sự tinh tế trong việc xử lý mâu thuẫn giữa tình riêng và nghĩa công, giữa nỗi đau cá nhân và lý tưởng cách mạng.
Tác phẩm định hình phong cách
Qua Đại hội Anh hùng các Lực lượng Vũ trang Giải phóng miền Nam lần thứ nhất (1965), Nguyễn Thi đã ghi dấu ấn quan trọng trong sự nghiệp văn chương của mình bằng truyện kí Người mẹ cầm súng viết về nữ anh hùng du kích Nguyễn Thị Út (Út Tịch) ở Trà Vinh.
Ngay sau đó, tác phẩm được trao Giải thưởng văn nghệ Nguyễn Đình Chiểu (Giải thưởng của Ủy ban Trung ương Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam). Đây chính là tác phẩm đại diện nhất cho phong cách sáng tác độc đáo của Nguyễn Thi, khi ông thành công trong việc kết hợp yếu tố tài liệu (Documentary) với nghệ thuật tường thuật.
Ở truyện kí này, Nguyễn Thi đã thành công trong việc khắc hoạ chân dung người phụ nữ miền Nam Anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang với câu nói nổi tiếng Còn cái lai quần cũng đánh, tạo nên một hình tượng văn học bất hủ trong kho tàng văn học Việt Nam. Tác phẩm không chỉ có giá trị nghệ thuật cao mà còn mang ý nghĩa lịch sử quan trọng, ghi nhận và tôn vinh vai trò của phụ nữ Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ.
Ngoài truyện kí trên, tên tuổi của ông còn gắn liền với những tác phẩm tiêu biểu khác như: Dòng kinh quê hương (tuỳ bút), Những sự tích ở đất thép (truyện kí), Mẹ vắng nhà, Những đứa con trong gia đình, Chuyện xóm tôi (truyện ngắn)… Những tác phẩm này đều thể hiện sự đa dạng trong thể loại sáng tác và khẳng định tài năng toàn diện của Nguyễn Thi trong việc xử lý các chủ đề khác nhau từ đời sống hàng ngày đến những sự kiện lịch sử quan trọng.
Sức ảnh hưởng của nhà văn
Những sáng tác của Nguyễn Thi viết ở chiến trường miền Nam không chỉ là minh chứng sống động cho tài năng của một người cầm bút dấn thân, mà còn góp phần to lớn vào việc định hình và phát triển dòng văn học kháng chiến chống Mỹ, một giai đoạn rực rỡ của văn học Việt Nam hiện đại.
Định hình dòng văn học kháng chiến
Nguyễn Thi đã trở thành một trong những người tiên phong trong việc tạo dựng phong cách văn học chiến tranh (War Literature) mang đậm tính nhân văn và chân thực. Ông không chỉ đơn thuần miêu tả chiến tranh mà còn khám phá sâu sắc tâm lý và tình cảm của con người trong hoàn cảnh đặc biệt ấy.
Nguyễn Thi đã làm nổi bật vẻ đẹp vừa mềm mại vừa bất khuất của những người mẹ, người chị trong thời chiến là những nhân vật không hề yếu đuối mà là trụ cột tinh thần trong từng gia đình, từng đơn vị chiến đấu.
Sự đóng góp này không chỉ có ý nghĩa trong việc làm giàu kho tàng văn học dân tộc mà còn tạo nên những chuẩn mực mới cho dòng văn học về phụ nữ trong chiến tranh. Những hình tượng nhân vật phụ nữ do Nguyễn Thi sáng tạo đã trở thành biểu tượng của sự kiên cường và hy sinh, ảnh hưởng đến nhiều thế hệ nhà văn sau này.

Phong cách viết của Nguyễn Thi đã mở ra hướng tiếp cận mới trong văn học chiến tranh, khi ông không tránh né những khía cạnh đau thương và mất mát mà lại biến chúng thành nguồn cảm hứng sáng tạo.
Văn Nguyễn Thi mang đậm dấu ấn chủ nghĩa hiện thực cách mạng, nhưng đó không phải là hiện thực khô cứng, khuôn mẫu, mà là thứ hiện thực sống động, sâu sắc đến tận tầng sâu tâm lý con người. Đây chính là điểm đổi mới quan trọng mà Nguyễn Thi đã đóng góp vào truyền thống văn học cách mạng Việt Nam.
Ảnh hưởng đến phong cách nghệ thuật
Ngôn ngữ trong văn ông giàu hình ảnh, gợi cảm và đặc biệt thấm đẫm sắc thái Nam bộ từ giọng điệu, từ ngữ đến phong cách miêu tả. Nguyễn Thi đã thấu hiểu sâu sắc tâm lý, lối sống và tâm hồn người dân nơi đây.
Điều này đã tạo nên một phong cách ngôn ngữ nghệ thuật độc đáo, vừa mang tính địa phương đậm đà vừa có sức lan tỏa rộng rãi. Ông viết về miền Nam bằng chính cảm nhận của người trong cuộc. Văn ông vì thế gần gũi, mộc mạc, mà vẫn sâu cay và đầy sức nặng tư tưởng.
Nguyễn Thi thường dùng các thủ pháp điện ảnh như cắt cảnh, lồng ghép hồi ức, dẫn truyện từ góc nhìn nhân vật. Những kỹ thuật tường thuật (Narrative Techniques) này đã trở thành đặc trưng trong phong cách của ông và ảnh hưởng đến cách viết của nhiều nhà văn sau này.
Ông gợi mở hướng viết chiến tranh bằng góc nhìn cá nhân, nội tâm hóa nhân vật. Ông truyền cảm hứng cho thế hệ sau viết về chiến tranh không chỉ bằng hào quang chiến thắng, mà còn bằng những trăn trở, nỗi đau, ký ức và sự hồi sinh từ mất mát.
Tầm ảnh hưởng xã hội
Nguyễn Thi đến với văn học không chỉ bằng tài năng mà còn bằng sự sống và cái chết của chính mình. Ông không phải nhà văn ngồi viết ở hậu phương, mà đã xông pha trực tiếp vào trận tuyến, ghi chép, quan sát, rồi viết như một người lính mang bút thay súng.
Điều này đã tạo nên uy tín đặc biệt cho tác phẩm của ông và trở thành tấm gương sáng cho các nhà văn, nhà báo trong việc tiếp cận và phản ánh hiện thực. Vì thế, văn Nguyễn Thi mang một giá trị tư liệu sống, đồng thời cũng là tư tưởng nghệ thuật sắc bén, phản ánh chân thực một giai đoạn lịch sử đầy biến động.
Sự hy sinh của Nguyễn Thi ngay trên chiến trường, với chiếc ba lô đựng toàn bản thảo chưa hoàn thành, đã trở thành biểu tượng của tinh thần cống hiến không giới hạn của trí thức cách mạng.
Có thể nói, Nguyễn Thi đã làm việc không biết mệt mỏi và đã chiến đấu đến hơi thở cuối cùng. Hình ảnh này đã truyền cảm hứng cho nhiều thế hệ người cầm bút sau này, khuyến khích họ gắn bó với cuộc sống và dấn thân vì sự nghiệp chung của dân tộc.
Đánh giá trên văn đàn và trong lòng độc giả
Nguyễn Thi đã trở thành một hiện tượng độc đáo của văn học thời chiến tranh, đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong cách tiếp cận và thể hiện đề tài kháng chiến.
Công nhận từ giới chuyên môn
Để ghi nhận những đóng góp Nhà văn – Liệt sĩ Nguyễn Thi cho nền văn học nước nhà, ngày 01/09/2000, Chủ tịch nước đã ký quyết định truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh (về văn học nghệ thuật) cho ông với các tác phẩm viết về miền Nam yêu dấu: Người mẹ cầm súng, Trăng sáng, Đôi bạn, Ở xã Trung Nghĩa.
Đây là vinh dự cao quý nhất mà một nghệ sĩ Việt Nam có thể đạt được, khẳng định giá trị vĩnh hằng của tác phẩm Nguyễn Thi trong kho tàng văn học dân tộc. Việc được trao giải thưởng này không chỉ ghi nhận tài năng nghệ thuật mà còn thể hiện sự đánh giá cao đối với tinh thần cách mạng và lý tưởng nhân văn trong sáng tác của ông.
Ngày 15/11/2011, ông được Chủ tịch nước ký quyết định truy tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng Vũ trang nhân dân. Danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân (Hero of People’s Armed Forces) không chỉ ghi nhận những đóng góp trong lĩnh vực văn học mà còn tôn vinh sự hy sinh anh dũng của ông trên chiến trường.
Điều này thể hiện sự đánh giá toàn diện về con người Nguyễn Thi, vừa là nghệ sĩ tài ba vừa là chiến sĩ kiên cường. Nguyễn Thi được trao Giải thưởng Văn nghệ Cửu Long giang (Nam bộ, 1949 – 1950) với tập thơ Hương đồng nội; Giải thưởng Văn nghệ Nguyễn Đình Chiểu năm 1965 với tập truyện ký Người mẹ cầm súng; Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học nghệ thuật đợt II, năm 2000.

Sự công nhận từ các tổ chức chuyên môn không chỉ dừng lại ở các giải thưởng mà còn thể hiện qua việc nghiên cứu và xuất bản toàn tập tác phẩm của ông. Nhà phê bình văn học Nhị Ca, nhà phê bình văn học Ngô Thảo đã có hẳn những công trình nghiên cứu, sưu tầm về Nguyễn Thi (các cuốn: Gương mặt còn lại – Nguyễn Thi, Năm tháng chưa xa, đặc biệt là cuốn Bốn nhà văn nhà số 4, Nhà xuất bản Hội Nhà văn mới in năm 2020).
Năm 1996, bộ Nguyễn Ngọc Tấn – Nguyễn Thi toàn tập (4 quyển, 2.700 trang) đã được xuất bản, trong đó có các tác phẩm: Những sự tích đất thép, Ước mơ của đất, Cô gái đất dừa, Sen trong đồng, Ở xã Trung Nghĩa… và một số tác phẩm còn đang viết dở dang được rút từ di cảo.
Vị trí trong lịch sử văn học
Nguyễn Thi đã trở thành một hiện tượng độc đáo của văn học thời chiến tranh, đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong cách tiếp cận và thể hiện đề tài kháng chiến. Phong cách văn chương Nguyễn Thi mang đậm tính hiện thực khốc liệt nhưng đầy nhân văn.
Ông không né tránh những đau thương, mất mát của chiến tranh và viết rất chân thực, thậm chí khốc liệt từ cái chết, sự chia ly đến những trận đánh ác liệt, nhưng ẩn sâu trong đó là lòng yêu thương, khát vọng sống và phẩm chất kiên cường của con người. Đây chính là đóng góp quan trọng của ông trong việc đổi mới phong cách viết về chiến tranh, tạo nên một dòng văn học chiến tranh mang tính nhân văn cao.
Các tác phẩm của ông đều lấy bối cảnh chiến trường miền Nam khốc liệt. Trong những tác phẩm ấy, Nguyễn Thi không chỉ miêu tả cuộc chiến một cách sắc lạnh, mà còn khắc họa sinh động hình ảnh những người dân Nam bộ chân chất, mạnh mẽ và đầy nghĩa tình, những con người vừa biết cầm súng đánh giặc, vừa yêu đời, yêu gia đình, và sống đầy nội lực.
Ông có lối viết sắc sảo, giàu chất điện ảnh và nội tâm. Tác phẩm ông đậm đặc giọng điệu, hình ảnh, cách sống, tư duy và ngôn ngữ của người dân miền Nam chân chất, trực tính, giàu tình cảm và quyết liệt trong chiến đấu.
Đặc biệt, hình tượng người phụ nữ miền Nam trong văn Nguyễn Thi hiện lên vô cùng nổi bật. Từ chị Út Tịch, người mẹ gan góc trong Người mẹ cầm súng, đến người mẹ hiền hậu trong Mẹ vắng nhà, tất cả đều là những biểu tượng của sự hy sinh, của tình mẫu tử hòa trong lý tưởng cách mạng. Những hình tượng này đã trở thành di sản văn học quý báu, ảnh hưởng sâu sắc đến nhiều thế hệ độc giả và nhà văn sau này.
Sự đón nhận của độc giả
Tên ông (bút danh Nguyễn Thi) được đặt cho nhiều đường phố ở nhiều địa phương: Thành phố Hồ Chí Minh (tuyến đường nơi ông ngã xuống), Đà Nẵng, Quy Nhơn, Lào Cai, Nam Định… Điều này cho thấy sự ghi nhận và tôn vinh của nhân dân đối với con người và tác phẩm của Nguyễn Thi.
Việc đặt tên đường phố theo tên nhà văn không chỉ là cách thức tưởng niệm mà còn thể hiện sự trân trọng đối với những giá trị tinh thần mà ông để lại. Nhà văn ngã xuống ở nơi không xa chỗ con gái anh, cháu Trang Thu (con gái anh với vợ đầu – nhạc sĩ Bình Trang) đang mong mỏi từng ngày được thấy mặt cha!
Kỉ niệm về Nguyễn Thi, bạn bè đồng nghiệp, đồng đội của anh đã kể thật nhiều. Nhà văn Nguyễn Trọng Oánh, nhà văn Nguyên Ngọc cùng các nhà văn Võ Trần Nhã, Thanh Giang đã có những dòng hồi ức cảm động, khi thì nói về anh những ngày trong căn cứ, trên R; khi thì viết về những giờ phút cuối cùng của anh trên đường Minh Phụng mùa xuân năm 1968. Những lời kể này không chỉ mang giá trị tư liệu mà còn thể hiện tình cảm chân thành và sự kính trọng của đồng nghiệp dành cho ông.
Vào những dịp lễ trọng đại của đất nước, quân đội hay Tạp chí Văn nghệ Quân đội anh em chúng tôi vẫn thường hay đến nhà anh ở số 3 Ông Ích Khiêm, Hà Nội hay Nghĩa trang Liệt sĩ Thành phố Hồ Chí Minh để thắp nén tâm nhang tưởng nhớ Anh – một tài năng, một liệt sĩ, một người anh hùng! Điều này cho thấy Nguyễn Thi không chỉ được nhớ đến như một nhà văn tài ba mà còn như một con người đáng kính, một tấm gương sáng về tinh thần hy sinh vì lý tưởng cao đẹp.
Di sản và ảnh hưởng lâu dài
Nguyễn Thi đã anh dũng ngã xuống trong tư thế của một chiến sĩ Giải phóng quân cách đây năm mươi lăm năm khi ông tròn bốn mười tuổi, khi tài năng đang độ chín. Sự ra đi quá sớm của ông đã để lại nhiều tiếc nuối trong lòng độc giả và giới văn học, nhưng cũng tạo nên một hình tượng bất tử về người nghệ sĩ cách mạng chân chính.
Người cha của hai con – một ở Nam, một ở Bắc, đã hy sinh mà chưa từng có hạnh phúc và trách nhiệm làm cha. Người chiến sĩ đã ngã xuống ở tiền tiêu khi hành trình đến ngày đại thắng phải còn thêm bảy năm nữa!

Với một khẩu súng, ai đó, kể cả Nguyễn Thi, có thể giết một hoặc nhiều tên địch. Với những trang giấy, Nguyễn Thi đã làm thức dậy nguồn sức mạnh tinh thần của một và nhiều thế hệ; lưu lại cho hậu thế bức tranh cực kỳ sắc nét và thấm đẫm tình người về đồng bào miền Nam, về nhân dân Việt Nam trong một cuộc chiến dữ dội và khốc liệt vào bậc nhất của lịch sử dân tộc, trong nửa sau thế kỷ XX.
Di sản văn học của Nguyễn Thi không chỉ có giá trị nghệ thuật mà còn mang ý nghĩa giáo dục sâu sắc, truyền cảm hứng cho các thế hệ sau trong việc yêu nước và cống hiến cho dân tộc.
Có thể nói xứng đáng ở hàng đầu, không phải chỉ vì một sự hy sinh anh dũng và oanh liệt trên chiến trường, với khẩu súng trong tay, mà còn là, hoặc trước hết là, cùng với khẩu súng còn là cái bòng đựng bản thảo – những bản thảo còn dang dở trên lưng.
Nguyễn Thi đã trở thành biểu tượng của người trí thức cách mạng, người nghệ sĩ không ngừng sáng tạo ngay cả trong hoàn cảnh khốc liệt nhất. Sự kết hợp giữa súng và bút trong con người Nguyễn Thi đã tạo nên một hình tượng đặc biệt trong văn học và lịch sử Việt Nam, truyền cảm hứng cho nhiều thế hệ người cầm bút sau này.
