Nhà văn Nguyễn Tuân – Tài hoa, uyên bác và ngông
Nguyễn Tuân (1910 – 1987) là một trong những nhà văn lớn nhất của văn học Việt Nam hiện đại, được xếp vào hàng cây đại thụ của nền văn học dân tộc.
| 22 phút đọc | lượt xem.
Nguyễn Tuân (1910 – 1987) là một trong những nhà văn lớn nhất của văn học Việt Nam hiện đại, được xếp vào hàng cây đại thụ của nền văn học dân tộc.
Tiểu sử tác giả
Nguyễn Tuân (1910 – 1987) là một trong những nhà văn lớn nhất của văn học Việt Nam hiện đại, được xếp vào hàng cây đại thụ của nền văn học dân tộc. Ông không chỉ là một nhà văn tài hoa mà còn là một nhà báo xuất sắc, người đã đưa văn phong báo chí Việt Nam lên tầm nghệ thuật.
Sinh ra trong thời kỳ biến động lớn của đất nước, Nguyễn Tuân đã trải qua và chứng kiến những bước ngoặt lịch sử quan trọng, từ thời kỳ thực dân Pháp, qua Cách mạng tháng Tám 1945, cuộc kháng chiến chống Pháp, đến chiến tranh chống Mỹ. Chính những trải nghiệm sống phong phú này đã tạo nên chiều sâu đặc biệt trong tác phẩm của ông, với một phong cách nghệ thuật độc đáo không lẫn với bất kỳ cây bút nào khác trong văn học Việt Nam.
Xuất thân và thời niên thiếu
Nguyễn Tuân sinh ngày 10/07/1910 tại phố Hàng Bạc, Hà Nội. Quê ông là làng Mọc (Nhân Mục) nay thuộc phường Nhân Chính, quận Thanh Xuân, Hà Nội. Ông sinh ra trong một gia đình khá giả, theo truyền thống nho học. Bố ông làm viên chức nhà nước nhưng có tính phóng túng, nghiện thuốc phiện, thường xuyên chu du khắp nơi và có nhiều vợ bé. Điều này đã ảnh hưởng không nhỏ đến tính cách và thế giới quan của Nguyễn Tuân sau này.
Từ nhỏ, Nguyễn Tuân đã thể hiện cái gen giang hồ – sự ưa thích xê dịch, du lịch khắp nơi. Ông thường theo bố đi thăm các vợ bé ở Quảng Nam, Huế và từ đó hình thành nên tình yêu lang thang, khám phá. Những trải nghiệm này đã trở thành nguồn cảm hứng quan trọng cho các tác phẩm của ông về sau. Ông tự nhận: Thực tế thì tôi không có kỷ niệm đẹp về thời thơ ấu và tuổi thanh xuân. Tôi chưa có tuổi trẻ thì đã thành ông cụ non rồi.

Thời học sinh, Nguyễn Tuân thể hiện sự bất mãn với nền giáo dục thực dân. Ông rất lười và nghịch, chuyên ngồi cuối lớp để dễ bề trốn học và bày trò nghịch vì bất mãn với các thầy giáo tây đầm khinh miệt mình. Sự phản kháng này phần nào phản ánh tinh thần dân túy (nationalism) đã hình thành từ rất sớm trong tâm hồn nhà văn trẻ tuổi.
Thời kỳ trước Cách mạng tháng Tám
Xuất hiện trên văn đàn vào cuối thập niên 30 và đầu 40 của thế kỷ trước, Nguyễn Tuân trở thành một tên tuổi lớn của văn học Việt Nam hiện đại. Trước Cách mạng tháng Tám 1945, ông không chỉ là nhà văn mà còn là một cây bút báo chí uy tín, đóng góp nhiều bài ký, tùy bút, và tạp văn trên các tờ báo nổi tiếng như: Ngày Nay (của Tự Lực Văn Đoàn); Thanh Nghị; Tiểu thuyết thứ bảy; Ích Hữu, Hà Nội báo.
Khác với các cây bút hiện thực phê phán hay phóng sự điều tra cùng thời, Nguyễn Tuân không đi sâu phản ánh bức xúc xã hội bằng tiếng nói đấu tranh, mà viết báo bằng giọng điệu tài hoa, duy mỹ, và cái tôi tự sự độc đáo, thể hiện tầm vóc của một nghệ sĩ ngôn từ yêu cái đẹp đến tận cùng. Thời kỳ này, ông theo đuổi chủ nghĩa duy mỹ (aestheticism), tìm kiếm cái đẹp tuyệt đối trong nghệ thuật và cuộc sống.
Cuộc hôn nhân được sắp đặt khi ông còn học năm thứ hai trung học đã mang lại cho ông một gia đình vẹn toàn, chung thủy. Vợ ông là con gái hàng Bạc, cũng là môn đăng hộ đối do gia đình lựa chọn cho. Mặc dù là cuộc hôn nhân sắp đặt, nhưng nhà văn Nguyễn Tuân lại yêu thương vợ con lắm và được bà vợ hiểu biết, bao dung với tính cách phóng túng của ông.
Bước ngoặt Cách mạng tháng Tám và thời kỳ kháng chiến
Ngay sau Tổng khởi nghĩa Tháng Tám 1945, Nguyễn Tuân đã hứa hẹn một cuộc từ bỏ triệt để con người cũ của mình: Cái giờ nghiêm trọng của mày đang điểm… bây giờ hoặc không bao giờ nữa. Mày phải cương quyết lấy mày ra làm lửa mà đốt cháy hết những phong cảnh cũ của tâm tưởng mày. Đây là bước ngoặt quan trọng nhất trong cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của ông.
Trước đây, Nguyễn Tuân chỉ là một lữ hành cô độc, để tìm cho mình những cảm giác lạ; nhưng chạm vào đâu cũng thấy buồn nản và chán chường. Còn bây giờ, Nguyễn đã được sống những phút giây sung sướng và cảm động. Sự chuyển biến này thể hiện quá trình từ chủ nghĩa cá nhân lãng mạn (romantic individualism) sang chủ nghĩa tập thể cách mạng.
Ông không ngần ngại đi lên chiến khu Việt Bắc, viết những trang mới nồng ấm tình người trong Đường vui, Tình chiến dịch... và vui vẻ đảm nhận chức Tổng Thư ký đầu tiên của Hội Văn nghệ Việt Nam, với cấp phó đồng sự là Tố Hữu. Điều này cho thấy sự cam kết sâu sắc của ông với lý tưởng cách mạng và việc xây dựng đất nước.
Tác phẩm tiêu biểu
Nguyễn Tuân đã để lại cho văn học Việt Nam một kho tàng tác phẩm đồ sộ với gần 20 tác phẩm được xuất bản, trong đó hơn một nửa là thể tùy bút. Sự nghiệp sáng tác của ông có thể chia thành hai giai đoạn rõ rệt: trước và sau Cách mạng tháng Tám 1945, mỗi giai đoạn đều có những đặc điểm nghệ thuật và tư tưởng riêng biệt.
Các tác phẩm của ông không chỉ thể hiện tài năng văn chương xuất chúng mà còn phản ánh sâu sắc những biến đổi tâm tư, tình cảm của một trí thức Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử.
Tác phẩm thời kỳ trước Cách mạng tháng Tám
Thời kỳ này, sáng tác của Nguyễn Tuân mang đậm tính chất lãng mạn, duy mỹ với ba đề tài chính: chủ nghĩa xê dịch, vẻ đẹp vang bóng một thời, và đời sống truỵ lạc của tầng lớp trí thức thành thị. Tác phẩm Một chuyến đi (Ngày Nay, 1939) ghi lại hành trình ông theo đò đi ngược sông Đà. Từ một bài báo du ký, tác phẩm đã trở thành một áng văn nghệ thuật, phản ánh thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ và tâm hồn nghệ sĩ say mê cái lạ, cái đẹp.
Tùy bút Thiếu quê hương (1940) là tác phẩm tiêu biểu thể hiện tâm trạng lạc lõng của con người mất gốc trong xã hội thực dân. Tác phẩm Thiếu quê hương với cái tôi lãng tử, u uẩn, đầy chất suy tư là tác phẩm độc đáo thể hiện chất u hoài, phản ánh tâm trạng lạc lõng của con người mất gốc, thiếu quê hương giữa thành thị. Đây là tiếng nói đau đớn của một trí thức nhạy cảm trước thực tế xã hội bị chi phối bởi ngoại bang.

Chén trà trong sương sớm (Thanh Nghị, 1940) là một bài báo mang chất tùy bút, ca ngợi nét đẹp trong văn hóa thưởng trà, đây là nghệ thuật báo chí độc đáo: dùng cái nhỏ để nói cái lớn, từ đời thường nâng lên chiều sâu văn hóa. Tác phẩm thể hiện triết lý sống của ông: tìm kiếm cái đẹp trong những điều giản dị nhất của đời sống.
Vang bóng một thời (1940) là tập truyện ngắn quan trọng, ghi lại những câu chuyện về thế hệ nhà nho cuối cùng trong thời kỳ giao thời. Những truyện trong Vang bóng một thời là dư âm của cuộc đời ông cụ và những chuyện kể của cụ đấy – chính là từ những kỷ niệm về người cha và những câu chuyện gia đình mà ông đã tái tạo nên bức tranh về một thời đại đã qua.
Tác phẩm thời kỳ sau Cách mạng tháng Tám
Sau Cách mạng tháng Tám 1945, phong cách sáng tác của Nguyễn Tuân có sự chuyển biến căn bản. Từ một nghệ sĩ duy mỹ, ông trở thành người viết về cuộc sống cách mạng, kháng chiến với tinh thần lạc quan và tình yêu sâu sắc dành cho đất nước, con người. Ông đã viết _những trang mới nồng ấm tình người trong Đường vui, Tình chiến dịch.
Đường vui (1949) là tùy bút nổi tiếng về cuộc sống trên chiến khu Việt Bắc, thể hiện sự say mê của ông với tinh thần cách mạng và đời sống bộ đội. Tác phẩm mang đậm chất trữ tình (lyricism) với những miêu tả sinh động về thiên nhiên, con người và tình đồng đội trong môi trường chiến tranh khốc liệt.
Tình chiến dịch (1950) tiếp tục khắc họa những hình ảnh đẹp của chiến sĩ Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Ông đã biết cách kết hợp giữa tính chính luận (publicistic nature) của báo chí với tính thẩm mỹ của văn học, tạo nên những trang viết vừa có giá trị tư tưởng, vừa có giá trị nghệ thuật cao.
Sông Đà (1960) là kết quả của chuyến đi thực tế vùng Tây Bắc, được coi là kiệt tác của Nguyễn Tuân với tùy bút Người lái đò sông Đà – một trong những tác phẩm hay nhất của văn học Việt Nam hiện đại. Tác phẩm kết hợp hoàn hảo giữa miêu tả thiên nhiên hùng vĩ và khắc họa tâm hồn con người lao động chất phác, mộc mạc.
Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi (1972) là tác phẩm thể hiện tinh thần yêu nước mãnh liệt trong thời kỳ chống Mỹ cứu nước. Có một câu chuyện về bài Cho giặc tàu bay Mỹ nó ăn một cái Tết ta thể hiện cá tính ngang ngang của ông khi viết về phi công Mỹ bị bắt giam, cho thấy sự kiên cường trong quan điểm nghệ thuật của nhà văn.
Đặc điểm nghệ thuật trong các tác phẩm tiêu biểu
Nguyễn Tuân ưa một lối viết liên tưởng mang tính chất tạo hình, ông viết không chỉ bằng ngòi bút của một nhà văn mà dường như còn viết bằng nhãn quan, bằng ngòi bút của một họa sĩ, của một nhà điêu khắc nên văn của ông rất giàu màu sắc, rất giàu hình khối, rất giàu chất điện ảnh. Điều này tạo nên sự đặc biệt trong phong cách tổng hợp nghệ thuật (synthesis of arts) của ông.
Với Nguyễn Tuân, ngôn ngữ duy mỹ chọn lọc đến từng từ khi ông vẽ bằng chữ, làm duyên bằng câu. Câu văn của Nguyễn Tuân thường trau chuốt, giàu nhạc tính, có nhịp điệu, mang hơi thở của một người say mê cái đẹp và yêu tiếng Việt một cách tuyệt đối. Ông đã nâng ngôn ngữ báo chí lên tầm nghệ thuật với những câu văn như tranh, như thơ.
Sức ảnh hưởng của nhà văn
Nguyễn Tuân không chỉ là một nhà văn tài ba mà còn là một hiện tượng văn học đặc biệt, có ảnh hưởng sâu rộng đến nhiều thế hệ độc giả và nhà văn Việt Nam. Sức ảnh hưởng của ông thể hiện ở nhiều phương diện: từ việc định hình thể loại tùy bút hiện đại Việt Nam, đóng góp vào sự phát triển của báo chí văn học, cho đến việc tạo ra một phong cách nghệ thuật độc đáo không thể nhầm lẫn. Ông đã chứng minh rằng văn học có thể vừa mang tính chất giải trí, vừa có giá trị thẩm mỹ cao và ý nghĩa giáo dục sâu sắc.
Ảnh hưởng đến sự phát triển thể loại tùy bút Việt Nam
Nói tới nhà văn Nguyễn Tuân, giới văn nghệ, trí thức không ai không thừa nhận tài văn chương của ông, đặc biệt là thể ký, nhất là tùy bút, Nguyễn Tuân đã cho xuất bản gần 20 tác phẩm thì quá nửa là tùy bút. Ông được xem là người tiên phong trong việc định hình và phát triển thể loại tùy bút hiện đại trong văn học Việt Nam.
Ông là người tiên phong trong thể loại ký báo chí, viết bằng cảm nhận chủ quan, tự sự, gợi hình và đậm chất văn chương. Phong cách tùy bút của Nguyễn Tuân đã tạo ra một mô hình mới cho các nhà văn sau này học tập và phát triển. Ông đã chứng minh rằng tùy bút không chỉ là thể loại văn xuôi thông thường mà có thể đạt đến đỉnh cao nghệ thuật.

Các tác phẩm tùy bút của ông như Người lái đò sông Đà, Chiếc lư đồng mắt cua, Tóc chị Hoài đã trở thành những mẫu mực về cách viết tùy bút, kết hợp harmoniously giữa yếu tố tự sự cá nhân với khả năng quan sát và miêu tả hiện thực một cách sống động, sinh động. Phương pháp liên tưởng tự do (free association) và kỹ thuật montage trong tùy bút của ông đã mở ra những khả năng mới cho thể loại này.
Đóng góp vào sự phát triển báo chí văn học Việt Nam
Nhà văn Nguyễn Tuân là người đã đưa ngôn ngữ báo chí Việt Nam lên tầm nghệ thuật. Ông viết báo như một nghệ sĩ, kể chuyện như một triết gia duy mỹ, và quan sát như một nhiếp ảnh gia ngôn từ. Đây là đóng góp quan trọng nhất của ông cho nền báo chí Việt Nam.
Những bài báo tùy bút của ông đã mở đường cho một hình thức báo chí mang tính văn hóa, thẩm mỹ, và đầy chiều sâu tâm hồn cá nhân. Ông đã chứng minh rằng báo chí không nhất thiết phải khô khan, máy móc mà có thể trở thành nghệ thuật ngôn từ đích thực.
Với Nguyễn Tuân, báo chí là nơi gìn giữ văn hóa, không chỉ chạy theo thời sự. Trong khi báo chí hiện đại thường gấp gáp, Nguyễn Tuân là minh chứng cho việc viết chậm, sâu, đẹp vẫn có chỗ đứng lâu dài. Quan điểm này đã ảnh hưởng đến nhiều thế hệ nhà báo sau này, khuyến khích họ không chỉ chú trọng đến tính thời sự mà còn chú ý đến giá trị thẩm mỹ và văn hóa trong viết báo.
Ảnh hưởng đến các thế hệ nhà văn sau
Phong cách nghệ thuật độc đáo của Nguyễn Tuân đã tạo cảm hứng cho nhiều nhà văn, nhà báo sau này. Chất điện ảnh, chất điêu khắc, chất hội họa đã làm cho sự hoa mỹ trong lời văn của Nguyễn Tuân rất rõ nét và đa dạng. Kỹ thuật tổng hợp nghệ thuật này đã trở thành nguồn cảm hứng cho các nhà văn muốn tạo ra những tác phẩm có tính nghệ thuật cao.
Nguyễn Tuân có giọng văn giàu cái tôi cá nhân. Ông là người đầu tiên trong văn học – báo chí Việt Nam hiện đại khẳng định cái tôi độc lập không rập khuôn. Điều này đã khuyến khích các thế hệ nhà văn sau tìm kiếm và phát triển phong cách riêng, không bắt chước máy móc.
Nguyễn Tuân đã chứng minh rằng một nhà văn có thể vừa trung thành với nghệ thuật, vừa phục vụ cho lý tưởng xã hội. Dù giàu chất văn, Nguyễn Tuân chưa bao giờ xa rời tinh thần thời đại, ông dung hòa nghệ thuật và trách nhiệm. Mô hình này đã trở thành tấm gương cho nhiều nhà văn trong việc cân bằng giữa tính nghệ thuật và trách nhiệm xã hội.
Đánh giá trên văn đàn và trong lòng độc giả
Nguyễn Tuân được công nhận là một trong những nhà văn xuất sắc nhất của văn học Việt Nam hiện đại, với sự đánh giá cao từ cả giới chuyên môn và độc giả đại chúng. Tên tuổi và tác phẩm của ông đã vượt qua thử thách của thời gian, trở thành di sản văn học quý báu của dân tộc. Sự đánh giá về Nguyễn Tuân không chỉ dừng lại ở tài năng văn chương mà còn ở nhân cách và phẩm chất của một trí thức Việt Nam chân chính, người đã biết kết hợp harmoniously giữa tài và tâm trong suốt cuộc đời sáng tác.
Đánh giá từ giới chuyên môn văn học
Xuất hiện trên văn đàn vào cuối thập niên 30 và đầu 40 của thế kỷ trước, Nguyễn Tuân là một tên tuổi lớn của văn học Việt Nam hiện đại, hình ảnh một nhà văn bậc thầy, một nhân cách văn hóa mẫu mực. Đây là nhận định chung của giới nghiên cứu văn học về vị thế của Nguyễn Tuân trong nền văn học dân tộc.
Các nhà phê bình văn học đánh giá cao gần 50 năm hoạt động văn học liên tục, Nguyễn Tuân đã có những đóng góp đáng kể vào sự phát triển văn xuôi quốc ngữ Việt Nam hiện đại, với phong cách nghệ thuật độc đáo, trình độ sử dụng tiếng Việt điêu luyện. Ông được xem là một trong những nhà văn có công lớn nhất trong việc hoàn thiện và nâng cao chất lượng ngôn ngữ văn học Việt Nam.
Giới chuyên môn đặc biệt ghi nhận Nguyễn Tuân là một trong ba nhà văn (cùng với Tố Hữu và Xuân Diệu) sớm có tác phẩm ngay từ những ngày đầu chào mừng kỷ nguyên độc lập của dân tộc, thể hiện sự nhạy bén trong việc cảm nhận và phản ánh những biến chuyển lịch sử. Điều này chứng tỏ không chỉ tài năng nghệ thuật mà còn ý thức trách nhiệm của một nhà văn đối với dân tộc.
Về phương diện kỹ thuật nghệ thuật, các nhà nghiên cứu đánh giá cao khả năng tổng hợp nhiều loại hình nghệ thuật trong văn xuôi của Nguyễn Tuân. Ông được coi là người đã làm phong phú thêm các phương pháp biểu hiện trong văn học Việt Nam, đặc biệt là kỹ thuật miêu tả có tính chất tạo hình (plastic description) và tính điện ảnh (cinematic quality) trong văn xuôi.
Sự ghi nhận từ Nhà nước và các tổ chức văn học
Sự đóng góp to lớn của Nguyễn Tuân đối với nền văn học Việt Nam đã được Nhà nước và các tổ chức văn học ghi nhận một cách trang trọng. Năm 1996, nhà văn Nguyễn Tuân được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt I, cho các tác phẩm Nguyễn (truyện ngắn, 1945), Đường vui (tuỳ bút, 1949), Tùy bút kháng chiến (1955), Sông Đà (tuỳ bút, 1960), Tình chiến dịch (tùy bút, 1960), Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi (tùy bút, 1972), Ký (1976), Tuyển tập Nguyễn Tuân (tập I, 1981; tập II, 1982), Chuyện nghề (phê bình tiểu luận, 1986). Đây là vinh dự cao quý nhất mà Nhà nước dành cho các nghệ sĩ văn học xuất sắc.

Nguyễn Tuân là Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam. Hội viên sáng lập Hội Nhà văn Việt Nam năm 1957, thể hiện sự ghi nhận về vai trò của ông trong việc xây dựng và phát triển nền văn học cách mạng Việt Nam. Ông đã vui vẻ đảm nhận chức Tổng Thư ký đầu tiên của Hội Văn nghệ Việt Nam, với cấp phó đồng sự là Tố Hữu, cho thấy sự tin tưởng của Đảng và Nhà nước đối với năng lực tổ chức và uy tín của ông.
Việc được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học – Nghệ thuật không chỉ là sự ghi nhận về thành tựu nghệ thuật mà còn thể hiện sự đánh giá cao về tinh thần yêu nước, lý tưởng cách mạng và đóng góp thiết thực của Nguyễn Tuân cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Các tác phẩm được vinh danh đại diện cho cả hai giai đoạn sáng tác của ông, từ thời kỳ kháng chiến chống Pháp đến thời kỳ chống Mỹ cứu nước.
Vị trí trong lòng độc giả và ảnh hưởng đến đời sống văn hóa
Người đọc mến Nguyễn Tuân về tài, nhưng còn trọng ông về nhân cách đó nữa. Đây là nhận xét sâu sắc về mối quan hệ giữa Nguyễn Tuân và độc giả của ông. Sức hấp dẫn của các tác phẩm Nguyễn Tuân không chỉ nằm ở tài năng văn chương xuất chúng mà còn ở nhân cách trong sáng, chân thành của nhà văn.
Các tác phẩm của Nguyễn Tuân đã để lại dấu ấn sâu sắc trong lòng người đọc bởi nó mang phong cách uyên bác, tài hoa, độc đáo và một giọng văn rất riêng. Độc giả Việt Nam qua nhiều thế hệ đều có thể nhận ra ngay phong cách Nguyễn Tuân chỉ qua vài dòng văn, điều này chứng tỏ sự độc đáo và sức hấp dẫn bền vững của ông.

Trong đời sống văn hóa, Nguyễn Tuân đã trở thành một biểu tượng của sự kết hợp giữa tài năng và nhân cách. Các câu chuyện về tính cách ngang ngang của ông, về sự kiên cường trong quan điểm nghệ thuật, về lòng yêu nước chân thành đã trở thành những giai thoại được truyền tụng trong giới văn nghệ. Ba cái ngang của Nguyễn Tuân – từ bút danh lạ hoắc, đến thái độ không ngại ngùng trước những vấn đề nhạy cảm, và sự kiên quyết bảo vệ quan điểm nghệ thuật – đã tạo nên hình ảnh một nhà văn có cá tính mạnh mẽ, không rập khuôn.
Đối với các thế hệ trẻ, Nguyễn Tuân là tấm gương về sự kết hợp giữa tình yêu nghệ thuật và trách nhiệm xã hội. Đối với Nguyễn Tuân, văn chương trước hết phải là văn chương, nghệ thuật trước hết phải là nghệ thuật. Tài phải đi đôi với tâm. Quan điểm này đã trở thành kim chỉ nam cho nhiều nhà văn trẻ trong việc định hướng con đường sáng tác.
Tác phẩm của Nguyễn Tuân không chỉ được đọc như là văn học giải trí mà còn được nghiên cứu như những mẫu mực về nghệ thuật ngôn từ. Các trường đại học, học viện văn học đều đưa tác phẩm của ông vào chương trình giảng dạy, và các nhà nghiên cứu tiếp tục khám phá những giá trị mới từ kho tàng sáng tác phong phú của ông. Điều này chứng tỏ giá trị bền vững và sức sống mãnh liệt của di sản văn học mà Nguyễn Tuân để lại.
Nhà văn đã cống hiến cho nền văn học nước nhà một sự nghiệp văn học đồ sộ và để lại dấu ấn ông trong cả đời sống và đời văn vô cùng đặc biệt. Đây chính là minh chứng cho vị trí đặc biệt của Nguyễn Tuân trong văn học Việt Nam hiện đại – không chỉ là một nhà văn tài ba mà còn là một hiện tượng văn hóa, một biểu tượng của sự hoàn hảo trong việc kết hợp giữa nghệ thuật và cuộc sống, giữa cá nhân và cộng đồng, giữa truyền thống và hiện đại.
