5 nhà tư tưởng vĩ đại đã từ bỏ chính ý tưởng của mình

Đây không phải là những bước lùi thời tuổi trẻ rồi được hiệu chỉnh sau này, mà là những nhà tư tưởng khổng lồ ở đỉnh cao quyền lực đã lật đổ hệ thống mình từng dày công xây dựng.

| 23 phút đọc | lượt xem.

5 nhà tư tưởng vĩ đại đã từ bỏ chính ý tưởng của mình

Đây không phải là những bước lùi thời tuổi trẻ rồi được hiệu chỉnh sau này, mà là những nhà tư tưởng khổng lồ ở đỉnh cao quyền lực đã lật đổ hệ thống mình từng dày công xây dựng.

Mở đầu

Triết gia hiếm khi thay đổi quan điểm của họ. Những nhà tư tưởng này đã làm – thường với giá cả về mặt xã hội và nghề nghiệp.

Đây là một thực tế thú vị mà thường bị bỏ qua: triết gia hiếm khi thay đổi quan điểm. Trong suốt lịch sử môn học này, bạn có thể đếm trên hai bàn tay những người công khai sửa đổi lập trường của họ về các câu hỏi lớn.

Điều này thật đáng ngạc nhiên, xét đến bản chất của triết học. Nó phát triển nhờ tranh luận, cung cấp vô tận lý do để đặt câu hỏi về lập trường của chính mình. Triết gia Will Buckingham từng nhận xét rằng, nếu đối thoại lý tính hoạt động như ta có thể mong đợi, các triết gia sẽ thay đổi quan điểm của họ với một tần suất linh hoạt khiến phần còn lại chúng ta phải xấu hổ.

Sau cùng, trong một thế giới đầy đồng nghiệp phản biện và lập luận mạnh mẽ, người ta có thể tưởng tượng những tâm trí liên tục xoay chuyển. Triết gia lý tưởng, ta cho rằng, sẽ dẻo dai, được dẫn dắt bởi bằng chứng và sẵn sàng đi theo lập luận bất kể nó dẫn đến đâu – hiện thân của bài học Socrates rằng nhận ra sự sai lầm của mình là khởi đầu của trí tuệ. Như Alexandra Plakias đã ghi nhận, những cú xoay chiều lớn trong triết học không nên khiến chúng ta kinh ngạc; chúng nên được tôn vinh.

Nhà triết học vĩ đại thế kỷ 20 Hilary Putnam nổi bật là một trường hợp hiếm hoi xem việc thay đổi suy nghĩ là một đức tính thay vì một khuyết điểm. Ông thậm chí đã bảo vệ điều đó một cách công khai, trình bày việc tự sửa đổi là dấu hiệu của tính trung thực trí thức.

Vậy tại sao sự ngoan cố trí thức thường chiếm ưu thế? Buckingham gợi ý nó bắt đầu từ chính nỗ lực mà các triết gia bỏ ra cho lập luận của mình. Kiến trúc tỷ mỉ ấy sụp đổ như một tòa nhà bằng bài giấy là điều đau đớn – càng tệ hơn khi cả đời uy tín bị gắn với nó. An toàn hơn là tiếp tục bắn mũi tên vào lập trường của người khác thay vì của chính mình. Văn hóa triết học lại thêm áp lực: trung thành với một lý thuyết được ca ngợi như sức mạnh, biểu tượng của sự nhất quán. Trong thời đại say mê chắc chắn và đúng đắn, sự đảo lộn bị đánh dấu là điểm yếu. Không có gì lạ khi một triết gia đổi hướng gây ngạc nhiên, nghi ngờ và đôi khi thậm chí bị những người bạn cũ thù ghét.

Dù vậy, lịch sử tư tưởng vẫn chứa những khoảnh khắc anh hùng trí thức: can đảm để từ bỏ ngay cả những niềm tin được ca ngợi nhất của mình, vì lý do tôn trọng sự thật. Như nhà tâm lý học Peter C. Hill quan sát: trong khi nhiều người xem những cú xoay chiều như đảo đường, hành động đơn giản nói Tôi đã sai có thể báo hiệu sức bật, khiêm nhường và cởi mở.

Ngay cả trong thời cổ đại, một vài nhà tư tưởng đã hiện thân cho lòng can đảm này. Timocrates of Lampsacus rẽ khỏi người thầy Epicurus, lên án chính trường phái mình từng ủng hộ. Dionysius of Heraclea, bị khủng hoảng sức khỏe, từ bỏ Chủ nghĩa Khắc Kỷ để theo chủ nghĩa Khuyến khích – chỉ để bị xem là kẻ phản bội bởi những đồng minh cũ vốn cho rằng sự thay đổi của ông là bằng chứng của sự yếu đuối.

Từ những người đi đầu đổi hướng ấy, bài viết nay chuyển tới năm trường hợp sau đây của xoay chiều cực đoan: Augustine of Hippo, Immanuel Kant, Karl Marx, Ludwig Wittgenstein và Simone Weil. Đây không phải là những bước lùi thời tuổi trẻ rồi được hiệu chỉnh sau này, mà là những nhà tư tưởng khổng lồ ở đỉnh cao quyền lực đã lật đổ hệ thống tư tưởng mình từng dày công xây dựng. Mỗi người giữ chặt một thế giới quan cho tới khi khủng hoảng hoặc khai ngộ phá vỡ nó. Thay vì bám chặt, họ nhảy vào lãnh thổ mới – thường phải trả giá rất lớn cá nhân.

Augustine of Hippo: Từ lũ rối vũ trụ tới quyền năng ân sủng

Augustine (354 – 430) đã thay đổi đường lối triết học của mình hai lần – và mỗi lần với tác động địa chấn. Trước khi được phong thánh, ông từng là một tâm trí trẻ bất an, thông minh, chìm đắm trong niềm tin rất khác. Trong chín năm, ông dấn thân vào Manichaeism – một tôn giáo Ba Tư nay đã biến mất khỏi lịch sử. Tầm nhìn của nó rất rõ ràng: Vũ trụ bị khóa trong cuộc chiến vĩnh cửu giữa Ánh sáng và Bóng tối, thiện và ác. Trong hệ thống này, ý chí tự do rất yếu, và tội lỗi có thể đổ lỗi cho các lực lượng bóng tối trú ngụ trong thân xác. Augustine nhanh chóng nổi bật, xuất sắc như người phát ngôn công khai, tranh luận với người Kitô giáo và người hoài nghi. Nhưng đời sống cá nhân của ông lại kể một chuyện khác: yêu vì yêu, ông bám víu khoái lạc, giữ một người tình, có một người con – và biện giải tất cả như công việc của Bóng tối.

Vào cuối đôi mươi, Augustine bước vào giai đoạn hỗn loạn. Nghi ngờ về vũ trụ luận Manichae gia tăng, và ông từ từ rút khỏi phe nhị nghĩa. Trong ba năm bất ổn, ông tìm kiếm một triết lý có thể ổn định tâm hồn dạ tốc của mình – thử hỏi chủ nghĩa hoài nghi, khám phá Thần học Tân Platon, và cân nhắc giáo lý Kitô giáo, đã bắt đầu xem xét khái niệm ý chí tự do. Ở bên ngoài, ông dạy về hùng biện; ở bên trong, ông đấu tranh. Ông đã chia tay người tình, miễn cưỡng chấp nhận một hôn ước sắp đặt, và sống nhiều tháng trong biệt hành bán tu tập với bạn bè.

Rồi đến bước ngoặt. Khóc nức nở dưới một cây sung, ông nghe tiếng một đứa trẻ ngân nga Cầm lên và đọc. Mở Kinh Tân Ước một cách ngẫu nhiên, ông bị cơn sáng tỏ đột ngột chiếm lấy: một ánh sáng bình an tan rã nghi ngờ và trao cho ông sức mạnh để từ bỏ cuộc đời cũ.

Mùa hè năm 386, Augustine chấp nhận Kitô giáo với sự dứt khoát kịch tính, từ bỏ nghề giáo hùng biện triều đình và hôn nhân sắp đặt chưa được thực hiện. Nhưng đây chưa phải là lần đảo chiều cuối cùng. Cuộc đấu tranh lớn trong tư tưởng của ông – căng thẳng giữa ý chí tự do và ân sủng – sẽ chiếm trọn phần còn lại của đời ông. Ban đầu trong hành trình Kitô giáo, khao khát bác bỏ fatalism Manichae, ông ủng hộ tự do con người. Trong On Free Choice of the Will, ông lập luận rằng điều ác phát sinh từ việc lạm dụng lựa chọn, không phải từ một vị thần đối thủ nào, và trách nhiệm thuộc về chúng ta. Nhưng theo thời gian, vị trí của Augustine thay đổi triệt để, bị dẫn dắt bởi các đối thủ mới. Nhà sư người Anh Pelagius dạy rằng con người có thể đạt cứu rỗi mà không cần viện trợ, bằng nỗ lực đạo đức thuần túy. Lo ngại, Augustine củng cố thuyết ân sủng của mình, trở thành lý thuyết gia lớn. Cuối đời, ông khẳng định rằng nếu không có món quà không hề kiếm được của Chúa thì con người bất lực làm điều tốt; ngay bước đầu của đức tin cũng phụ thuộc vào ân sủng. Lời cầu nguyện của ông – Xin Ngài ban điều Ngài truyền, và truyền điều Ngài muốn – ghi lại niềm tin này. Nhà phê bình cáo buộc ông quay lại chủ thuyết định mệnh của Manichae. Augustine phản biện với sự tinh tế: ý chí tự do tồn tại, nhưng nếu không có ân sủng thì bất lực. Việc ông sửa đổi đã định hình nhiều thế kỷ tranh luận sau này.

Immanuel Kant: Từ giấc mơ lý tính tới thức tỉnh phê phán

Ít có cú chuyển hướng trí thức nào ảnh hưởng đến tư tưởng phương Tây sâu sắc như bước ngoặt của Immanuel Kant khi ông từ bỏ siêu hình học lý tính thời trẻ. Sự nghiệp của ông chia rõ hai phần: thời kỳ tiền - phê phán, kết thúc năm 1770; và giai đoạn phê phán, bắt đầu năm 1781 với những Luận Khảo sẽ định hình triết học. Ông từng tin rằng lý tính thuần túy có thể chứng minh sự tồn tại của Chúa và linh hồn bất tử. Nhưng bên dưới sự tự tin ấy là nỗi băn khoăn: Lý tính thực sự có thể khẳng định điều gì chắc chắn?

Bước đột phá của Kant bắt nguồn từ khủng hoảng trí thức và sinh tồn. Ngập chìm trong các tác phẩm của nhà hoài nghi người Scotland David Hume vào thập niên 1760, ông cảm thấy như Hume đã phá vỡ giấc ngủ giáo điển của mình, phá tan niềm tin vào quyền lực không bị kiểm soát của lý tính thuần túy. Hume đặt ra nghi vấn sắc nhọn về siêu hình học buộc Kant phải nhìn nhận mình đã chấp nhận mà không đặt câu hỏi các giả định thoải mái – rằng lý tính có thể nắm bắt nhân quả, vũ trụ, ngay cả bản chất của thần. Hume buộc ông phải đối mặt với khả năng rằng phần lớn siêu hình học chỉ là mưu thuật và ảo giác.

Cú sốc thật sâu sắc. Giữa đời ông quyết định bắt đầu lại. Ông rút khỏi xuất bản hơn một thập kỷ – giai đoạn được gọi là khoảng thời im lặng – để xây dựng lại triết học từ gốc rễ. Bạn bè nhận ra ông ngừng lui tới các câu lạc bộ xã hội, thay vào đó chìm đắm trong suy ngẫm cô đơn. Sau này ông đùa rằng nỗ lực ấy đã lấy mất sức khỏe của mình, dù ông sống tới tuổi 80.

Năm 1781, Kant tái xuất sân khấu với Critique of Pure Reason, một cuốn sách ông ví như cuộc cách mạng Copernicus trong triết học: chuyển tâm điểm của tri thức từ thế giới sang tâm trí biết nó. Không còn là tâm trí phản chiếu thụ động thực tại. Thay vào đó, thực tại luôn hiện hữu thông qua kiến trúc nhận thức của chúng ta. Không gian và thời gian không còn là thực thể trôi nổi mà là thấu kính mà qua đó mọi thứ có thể được nhìn thấy. Nhân quả không còn là tính chất của các đối tượng mà là luật mà hiểu biết sử dụng để liên kết sự kiện. Từ quan điểm cực đoan này, ta không bao giờ nắm bắt vật - như - nó - là, thực tại tồn tại tách khỏi chúng ta, nhưng ta có thể biết các hiện hữu với sự chắc chắn, vì chúng được định hình theo những cách nhất quán bởi năng lực của chúng ta.

Đây là khởi nguồn của triết học phê phán của ông. Những câu hỏi mà Kant trẻ từng trả lời một cách hồ hởi giờ bị tuyên bố là không thể giải. Ông thay đổi quan điểm về chính tâm trí mình – nhận ra rằng sự thật đòi hỏi phải thừa nhận nơi lý tính phải dừng lại. Cuốn sách rất dày đặc, đôi lúc tuyệt vọng, khi Kant cố gắng cứu vãn những gì quan trọng trong siêu hình học trong khi bóc trần ảo giác của nó. Cuốn sách được đón nhận lạnh lùng; đồng nghiệp bám vào những chắc chắn cũ mà ông đã phá bỏ. Dù vậy Kant kiên trì. Với những Luận Khảo sau này, ông củng cố cuộc đại cải tổ của mình. Triết học hiện đại bắt đầu từ đây, ở ranh giới của cái mà lý tính có thể biết.

Karl Marx: Từ ngọn lửa lãng mạn tới bộ máy cách mạng

Tư tưởng của Karl Marx (1818 – 1883) xoay chuyển với lực của một cuộc cách mạng, từ chủ nghĩa duy tâm lý tưởng thời trẻ tới chủ nghĩa duy vật khắc nghiệt – một bước ngoặt rõ tới mức các học giả sau này nói về Marx thời trẻ và Marx chín muồi. Trong những năm 1840, Marx trẻ, được nuôi dưỡng bởi nhân loại chủ ngĩa Khai sáng và chủ nghĩa ý tưởng Đức, viết với sự khẩn trương về tha hóa của con người và giấc mơ về thực tại tự do hơn. Ông hình ­ dung cộng sản như sự phục hồi bản chất loài-người nơi bản chất con người cuối cùng có thể nở rộ, không còn bị ràng buộc bởi sự xa lạ của chủ nghĩa tư bản. Nhân loại đứng ở trung tâm tầm nhìn của ông. Là một nhà cách mạng cuồng nhiệt về tinh thần, ông vẫn tin vào phê phán lý tính để đánh thức biến đổi.

Chỉ sau vài năm, Marx trải qua một chuyển hướng sâu sắc. Hai cú sốc kích hoạt nó. Cú đầu từ báo chí, nơi ông đối mặt với các cạnh thô của đời sống xã hội: kiểm duyệt, khốn khổ nông dân, luật bất công. Một trường hợp đã in đậm ông – các thôn dân nghèo bị trừng phạt vì thu nhặt gỗ rụng trong rừng của giới quý tộc. Những gì người giàu phớt lờ là trộm cắp, với người nghèo là sinh tồn. Những gặp gỡ như thế kéo ông khỏi chính trị thuần túy sang kinh tế và chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa trừu tượng, ông nhận ra, không thể giải thích hoặc chữa lành những vết thương như vậy; ông phải đắm mình sâu hơn vào thực tại. Với chút châm biếm, ông sau này nhớ lại trong lời tựa năm 1859 rằng báo chí đã đặt ông vào vị trí bối rối của việc phải bàn tới cái được gọi là lợi ích vật chất.

Cú sốc thứ hai là trí thức: các ý tưởng xã hội và duy vật ào tụ từ các đồng thời như Ludwig Feuerbach và, trên hết, Friedrich Engels. Engels thuyết phục Marx hoài nghi rằng giai cấp công nhân là động cơ thực sự của lịch sử. Đến năm 1845, Marx chế giễu các đồng nghiệp của mình vì lơ lửng trên mây. Đồng thời, ông định nghĩa lại con người như sản phẩm của điều kiện xã hội và giai cấp hơn là chủ thể mang bản chất vượt thời gian. Trong The German Ideology, ông và Engels viết rằng họ phải làm rõ tài khoản với lương tâm triết học cũ của mình, bỏ lại thói quen suy nghĩ suy đoán. Bước ngoặt quyết định tới mức ông không bao giờ xuất bản những bản thảo sớm của mình, vì ông đánh giá chúng trẻ thơ.

Marx chín muồi thay đổi cách nhìn về cách thay đổi thế giới. Bước ngoặt đó đặt nền móng cho Capital. Marx trẻ vẫn nói ngôn ngữ lý tưởng nhân văn; Marx già chuyển sang mổ xẻ chủ ngĩa tư bản với dao khoa học. Lịch sử, ông lập luận, tiến lên nhờ lực vật chất và xung đột giai cấp, không phải nhờ những tầm nhìn cao đẹp. Chủ ngĩa tư bản sẽ không sụp đổ trước lời kêu gọi lương tâm; nó chỉ sụp đổ dưới chính mâu thuẫn của nó, dẫn tới cách mạng khi điều kiện chín muồi. Nơi Marx trẻ vẽ ra các utopia, Marx già hướng tới kinh tế và thực hành.

Giá phải trả cho bước chuyển này là rất lớn. Đồng nghiệp tố ông phản bội triết học; nhà nước Phổ buộc ông lưu vong. Ông phải trả bằng sự nghiệp, quê hương, sự an nhàn, trải qua nghèo khó, bệnh tật và mất mát. Dù vậy ông vững vàng, được nhớ tới vì câu nói rằng bỏ qua sai lầm mà không bác bỏ là khuyến khích bất lương trí thức.

Ludwig Wittgenstein: Từ sự hoàn mỹ logic tới ngôn ngữ sống

Ludwig Wittgenstein là biểu tượng cho những chuyển hướng triết học. Năm 1921, ông xuất bản Tractatus Logico‑Philosophicus, một luận án dày đặc tuyên bố rằng thế giới là các sự viện được phản chiếu trong các mệnh đề logic, và điều không thể được diễn tả như vậy phải bị im lặng. Câu cuối cùng ­— Về điều mà không thể nói được, ta phải im lặng — khép lại tầm nhìn khắt khe của ông. Ông tin rằng mình đã giải mã được mọi câu đố, và bỏ nghề triết học, gọi tác phẩm của mình là không thể bị phủ nhận và định mệnh. Rồi kịch tính: Ông tặng hết tài sản, bỏ Cambridge để dạy học ở một trường làng, vật lộn với cảm giác tội lỗi và trầm cảm, sống trong cơn sốt vô hướng trí thức.

Sự nghi ngờ bắt đầu gặm nhấm sự tự tin của Wittgenstein. Vết nứt đầu tiên tới năm 1923, khi nhà toán học trẻ người Anh Frank Ramsey chỉ ra rằng Tractatus không thể giải thích điều đơn giản như tại sao một điểm trong trường thị giác không thể cùng lúc đỏ và xanh. Mâu thuẫn không phát sinh từ logic, Ramsey lập luận, mà từ bản chất của thực tại. Wittgenstein cố vá lỗi, chỉ để thấy phê phán cắt thẳng vào trái tim lý thuyết của ông. Căng thẳng của việc tư duy lại khiến ông đôi khi cảm giác sát ngưỡng điên.

Một vài năm sau tới cú đấm quyết định: các cuộc đối thoại với nhà kinh tế gia người Ý Piero Sraffa. Trong một khoảnh khắc nổi tiếng, Sraffa chạm cằm với cử chỉ tôi không quan tâm kiểu Napoli và hỏi, Hình thức logic đó là gì? Wittgenstein choáng váng. Ông sau này so sánh ảnh hưởng của Sraffa như đào một mạch quặng cứng đầu – công việc vất vả nhưng giàu khám phá.

Sau gần chín năm lạc lối, Wittgenstein trở lại Cambridge với quyết tâm đối mặt những sai lầm nghiêm trọng của chính mình. Kết quả là Philosophical Investigations, xuất bản sau khi ông mất năm 1953 – một cuốn sách phủ nhận hoàn toàn Tractatus. Nhà triết học Lee Braver mô tả bước nhảy này là radical như chuyển từ triết học hiện đại sang hậu-hiện đại. Không còn giấc mơ rằng ngôn ngữ có thể lập bản đồ cấu trúc của thực tại. Thay vào đó, Wittgenstein nhận ra ngôn ngữ là gương của chúng ta – dệt nên trong thực hành, thói quen, hình thức sống của chúng ta. Ý nghĩa không còn được cố định bởi logic mà bởi cách sử dụng, như cái chạm cằm của Sraffa khiến ông bối rối.

Việc xây dựng một ngôn ngữ logic hoàn hảo, ông cảnh báo, đã dụ dỗ triết gia vào ảo giác; chính Tractatus cũng phạm phải điều đó. Ông thậm chí ví nó như một chiếc đồng hồ lỗi – thiết kế ấn tượng, nhưng vô dụng trong chức năng.

Hành động tự huỷ hoại trí thức này khiến một vài người bối rối, nhưng theo thời gian nó ban cho Wittgenstein một hào quang tiên tri: nhà tư tưởng hiếm hoi dám loại bỏ tác phẩm lớn của mình để tìm kiếm sự thật.

Simone Weil: Từ cách mạng thế giới tới khai ngộ tâm hồn

Simone Weil có thể là hình ảnh rõ ràng nhất của nhà tư tưởng liên tục từ bỏ những chắc chắn để theo đuổi sự thật cao hơn. Sinh năm 1909, bà nổi bật ở nhiều vai trò: học giả xuất sắc, thợ nhà máy, nhà hoạt động chính trị, binh nhân và cuối cùng là một nhà huyền mystic chạm tới cõi thánh. Nhân danh cực đoan, bà từng là một Marxist cực đoan. Từ chối sự an ủi của học thuật, bà lao mình vào đời sống công nhân, được mệnh danh Nữ Trinh Đỏ. Bà cho đi thu nhập, tham gia biểu tình, làm việc ẩn danh trong các nhà máy – một thử thách gần huỷ hoại sức khỏe. Những bài luận đầu của bà viết dưới ống kính Marx công khai tuyên bố chủ nghĩa xã hội cách mạng là con đường thực sự của công lý.

Tuy nhiên Weil không chịu giao lương tâm mình cho bất cứ giáo phái nào. Cuối những năm 1930, bà bắt đầu xem lại cam kết Marx gia của mình, soi vào khớp yếu của nó. Cái khiến bà bối rối nhất là niềm tin của Marx vào luật lịch sử, lời hứa rằng chiến thắng vô sản là tất yếu. Theo bà, điều này không khác gì giáo lý như Giáo hội. Thực tại, bà khẳng định, rối rắm, bi thảm, không bao giờ nằm trên một lộ trình tới utopia. Bà cũng nhìn thấy trong các phong trào cộng sản mầm mống của bạo chúa, nơi người giải phóng có thể trở thành chủ mới. Vì vậy, bà drift sang phía trái như một kẻ dị giáo, đặt sự thật lên trên mọi biểu ngữ đảng phái.

Rồi, đảo chuyển sâu hơn: huyền mysticism. Năm 1938, trong Tuần Thánh tại tu viện dòng Benedict ở Solesmes, nhạc ca Gregorian xuyên qua tâm hồn bà như ánh sáng xuyên qua giáp trụ, làm đầy bà bằng niềm vui thuần khiết như thể thần linh. Sau đó, khi nghe bài thơ Love (III) của George Herbert, bà viết rằng bà cảm thấy Chúa Kitô chính Ngài đã xuống và chiếm hữu tôi.

Đây là điểm không thể quay lại: Nữ tư tưởng gia vật chất và người bảo hộ người bị áp bức đã yêu thương Chúa – cụ thể là Chúa trên Thánh giá. Tư tưởng của Weil mang một ánh rạng mới, được định hình bởi huyền mysticism Kitô-Platon, dù bà chưa từng chính thức cải đạo. Bà viết về giải thể bản ngã để tình yêu thần linh có thể chảy qua. Lòng từ bi của bà trở nên không khoan nhượng tới mức mở rộng ngay cả với kẻ thù, và bà xem khổ đau không phải là nỗi đau vô nghĩa mà là cánh cửa vào sự hiện diện của Chúa. Cuộc cách mạng chính trị mà bà từng khao khát giờ có vẻ quá nhỏ; cái cần là cách mạng trong tâm hồn, được thực hiện bởi ân sủng.

Trong thời lưu vong chiến tranh, bà dệt hai tình yêu lớn của mình – công lý và Thiên Chúa – thành một sứ mệnh. Bà tình nguyện tham gia các nhiệm vụ nguy hiểm, ghi chép đầy hiểu biết cháy bỏng, và giới hạn khẩu phần ăn giống như người bị chiếm đóng. Kỷ luật nuốt chửng bà; bà qua đời năm 1943 khi mới 34 tuổi. Ngay cả khi ấy, mỗi lần đảo chuyển trong đời ngắn ngủi của bà là một bước lên – được thúc đẩy bởi sự thèm khát không ngừng đối với chân lý tuyệt đối và sự thiện, vương miện cuối cùng là nơi Thiên Chúa.

Tại sao những tâm hồn lớn lại thay đổi chính mình?

Triết học thường tôn vinh những người xây dựng các hệ thống lớn – những kiến trúc sư táo bạo của tư tưởng, những người vẽ bản đồ rộng lớn của thực tại. Nhưng không kém phần đáng được tôn vinh là những khoảnh khắc tự chỉnh của một nhà tư tưởng, khi họ dám tháo dỡ cái từng có vẻ vững chắc. Niềm tin không phải là sự ngoan độ; sức mạnh lớn hơn nằm ở việc nói: Tôi đã học được điều gì đó lật ngược niềm tin trước kia của mình, và tôi chọn sự thật hơn là lòng kiêu hãnh. Những cú xoay chiều như vậy không làm giảm giá trị một triết gia; chúng làm họ vĩ đại hơn. Chúng ta nhớ Wittgenstein không chỉ vì Tractatus hay Investigations, mà vì câu chuyện về một tâm trí không sợ tháo dỡ những chắc chắn của chính mình.

Những ví dụ này nhắc chúng ta rằng tư duy phê phán chân chính bắt đầu từ nhà. Điều tra giả định của chúng ta, mở lòng khi trải nghiệm, đối thoại hoặc đau khổ đặt chúng ta trước thử thách – đó là triết học ở mức sâu nhất. Tư duy không phải là một công trình hoàn thiện; nó là một hành trình sống. Những tâm trí vĩ đại tiến bộ bằng cách vượt qua chính mình, đôi khi mang trong mình kịch tích của hai triết gia đang chiến đấu.

Trong thời đại phân cực của chúng ta, nơi nghi ngờ bị chế nhạo như sự yếu đuối, bài học của họ là cấp thiết. Liệu chúng ta có thể chào đón sự thay đổi trong chính cách chúng ta tư duy – thậm chí tận hưởng nó? Làm được điều đó là đồng hành cùng lời thề lâu đời của triết học: một tình yêu không sợ hãi với sự thật.

5 nhà tư tưởng vĩ đại đã từ bỏ chính ý tưởng của mình 460 – khoa hoc, y thuc, tu duy, triet hoc, phan boi niem tin, phan triet, tu tuong, triet gia sai lam, tu do tu tuong, tu bo y tuong triet hoc, simone weil, ludwig wittgenstein, karl marx, immanuel kant, augustine of hippo.
5 nhà tư tưởng vĩ đại đã từ bỏ chính ý tưởng của mình.
0%

Chuyên mục karl-marx

Theo dõi hành trình

Hãy để lại thông tin, khi có gì mới thì Nhavanvn sẽ gửi thư đến bạn để cập nhật. Cam kết không gửi email rác.

Họ và tên

Email liên lạc

Đôi dòng chia sẻ