Viết bài văn nghị luận so sánh 2 tác phẩm Hoàng Hạc lâu và Tràng giang
Viết bài văn nghị luận so sánh 2 tác phẩm Hoàng Hạc lâu và Tràng giang, đều tả cảnh sông nước nhưng mang những nét riêng biệt về phong cách và tâm hồn.
| 42 phút đọc | lượt xem.
Trong kho tàng thơ ca Việt Nam và Trung Quốc, Hoàng Hạc lâu của Thôi Hiệu và Tràng giang của Huy Cận là hai tác phẩm xuất sắc cùng viết về cảnh sông nước nhưng mang những nét riêng biệt về phong cách và tâm hồn.
Bài thơ của Thôi Hiệu là kiệt tác thơ Đường, được sáng tác vào thế kỷ thứ 8, thể hiện nỗi buồn của kẻ lữ hành nhớ quê hương qua cảnh sông Dương Tử hùng vĩ. Trong khi đó, Tràng giang của Huy Cận viết năm 1939 là tuyệt tác thơ mới Việt Nam, khắc họa hình ảnh dòng sông miền Trung với nỗi cô đơn sâu lắng của con người hiện đại.
Việc viết bài văn nghị luận so sánh 2 tác phẩm Hoàng Hạc lâu và Tràng giang không chỉ giúp học sinh nắm vững kiến thức văn học mà còn rèn luyện tư duy phân tích, khả năng cảm thụ nghệ thuật. Bài viết này sẽ hướng dẫn chi tiết phương pháp viết và cung cấp văn mẫu hoàn chỉnh để người học có thể tham khảo và ứng dụng vào thực tế.
Nguyên văn 2 tác phẩm Hoàng Hạc lâu và Tràng giang
Trước khi đi vào phân tích chi tiết và viết bài văn nghị luận so sánh 2 tác phẩm Hoàng Hạc lâu và Tràng giang, chúng ta cần nắm vững nội dung nguyên văn của cả hai bài thơ. Việc đọc kỹ nguyên tác là bước đầu tiên và quan trọng nhất trong quá trình nghiên cứu văn học, giúp người đọc cảm nhận trực tiếp vẻ đẹp ngôn ngữ, hình ảnh và cảm xúc mà tác giả muốn truyền tải.
Đối với Hoàng Hạc lâu, chúng ta sẽ được tiếp cận cả bản gốc chữ Hán, phiên âm Hán Việt và bản dịch nghĩa để hiểu rõ từng chi tiết. Còn với Tràng giang, đây là tác phẩm tiếng Việt nên người đọc có thể cảm nhận trực tiếp vẻ đẹp ngôn ngữ thuần Việt.
Phần này sẽ trình bày đầy đủ nguyên văn hai tác phẩm kèm theo những thông tin cần thiết về ngữ cảnh, cách đọc và ý nghĩa ban đầu, tạo nền tảng vững chắc cho việc phân tích và so sánh ở các phần sau.
Bài thơ Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hiệu
Hoàng Hạc lâu là một trong những kiệt tác thơ Đường được yêu thích nhất, với tám câu thất ngôn mang âm hưởng cổ điển đầy bi tráng. Dưới đây là nguyên văn bài thơ gồm ba phần: bản gốc chữ Hán, phiên âm Hán Việt và bản dịch nghĩa sang tiếng Việt.
黃鶴樓
昔人已乘黃鶴去,
此地空餘黃鶴樓.
黃鶴一去不復返,
白雲千載空悠悠.
晴川歷歷漢陽樹,
芳草萋萋鸚鵡洲.
日暮鄉關何處是,
煙波江上使人愁.
Phiên âm:
Tích nhân dĩ thừa hoàng hạc khứ,
Thử địa không dư Hoàng Hạc lâu.
Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản,
Bạch vân thiên tải không du du.
Tình xuyên lịch lịch Hán Dương thụ,
Phương thảo thê thê Anh Vũ châu.
Nhật mộ hương quan hà xứ thị?
Yên ba giang thượng sử nhân sầu.
Dịch nghĩa:
Người xưa đã cưỡi hạc vàng bay đi,
Nơi đây chỉ còn lại lầu Hoàng Hạc.
Hạc vàng một khi bay đi đã không trở lại,
Mây trắng ngàn năm vẫn phiêu diêu trên không.
Mặt sông lúc trời tạnh, phản chiếu cây cối Hán Dương rõ mồn một,
Cỏ thơm trên bãi Anh Vũ mơn mởn xanh tươi.
_Trời về chiều tối, tự hỏi quê nhà nơi đâu?
_Trên sông khói toả, sóng gợn, khiến người sinh buồn!
Bài thơ này được đưa vào sách giáo khoa Văn học 10 các chương trình từ giai đoạn 1990 đến nay, là một trong những tác phẩm bắt buộc mà học sinh cần nghiên cứu kỹ lưỡng.
Hoàng Hạc lâu (黃鶴樓) là ngôi lầu được ở tỉnh Hồ Bắc, Trung Quốc. Lầu được xem là một trong Tứ đại danh lâu của Trung Quốc (cùng với Nhạc Dương lâu ở Nhạc Dương, Đằng Vương các ở Nam Xương, Bồng Lai các ở Bồng Lai). và là ngôi lầu nổi tiếng được các thi nhân ca tụng. ghềnh đá Hoàng Hạc của Xà sơn bên bờ sông Dương Tử, thuộc thành phố Vũ Hán, huyện Vũ Xương, tỉnh Hồ Bắc, vào năm Hoàng Vũ thứ 2 (223) đời nhà Ngô thời Tam Quốc. Đến nay, lầu đã có 12 lần bị thiêu huỷ, 12 lần xây cất lại, mỗi lần lại cao hơn và có nhiều tầng hơn.
Tên gọi Hoàng Hạc của lầu này bắt nguồn từ truyền thuyết dân gian. Tương truyền Phí Vĩ (費禕 ? – 253) tự Văn Vi (文偉), một tu sĩ đắc đạo thành tiên thường cưỡi hạc vàng ngao du sơn thuỷ. Một hôm, tiên và hạc bay ngang Vũ Hán và dừng chân lại trên Xà sơn để nhìn ngắm, một bên là cảnh đẹp hùng vĩ của Trường Giang và bên kia là Ngũ Hồ trong khói sương diễm lệ. Người đời sau đã từ nơi tiên cưỡi hạc vàng bay đi xây lên một tháp lầu đặt tên là Hoàng Hạc lâu. Thời xưa, đây là nơi gặp mặt của các văn nhân mặc khách. Thời Đường (618 – 907), các thi nhân đến đây để vừa thưởng ngoạn phong cảnh non nước mây ngàn hữu tình, vừa uống rượu làm thơ.
Chiến tranh và thời gian đã phá huỷ những kiến trúc của lầu và đều được tái thiết. Lầu nguyên có 3 tầng, vào khoảng niên hiệu Hàm Phong (1851 – 1861) bị giặc giã đốt phá, tới niên hiệu Đồng Trị (1862 – 1874) tình hình ổn định, lầu Hoàng Hạc mới được xây dựng lại năm 1868 gồm 2 tầng, tầng trên thờ Phí tiên, tầng dưới thờ Lã tiên, gọi là Thanh lâu, nhưng đến niên hiệu Quang Tự lại bị cháy năm 1884.
Năm 1957, khi ngôi cầu đầu tiên vượt sông Dương Tử được xây cất, vị trí cũ của Hoàng Hạc lâu bị trưng dụng và các kiến trúc Hoàng Hạc lâu được dời cách vị trí cũ 1km. Tháng 10 – 1981, Hoàng Hạc lâu được tái thiết và tháng 6 – 1985 khánh thành. Tháp hiện nay là một công trình được xây lại bằng vật liệu hiện đại và có một cầu thang máy. Hoàng Hạc lâu giờ nằm trong Hoàng Hạc công viên, là nơi thu hút du khách trong và ngoài nước Trung Quốc.
Bài thơ Tràng Giang của Huy Cận
Tràng giang là kiệt tác thơ mới của Huy Cận, được sáng tác năm 1939 và tặng cho bạn thân Trần Khánh Giư. Bài thơ gồm bốn khổ, mỗi khổ bốn câu, viết theo thể thơ tự do với lời đề từ đầy ý nghĩa.
Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài.
H.C.
Tặng Trần Khánh Dư.
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,
Con thuyền xuôi mái nước song song.
Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả;
Củi một cành khô lạc mấy dòng.
Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót;
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.
Bèo giạt về đâu, hàng nối hàng;
Mênh mông không một chuyến đò ngang.
Không cầu gợi chút niềm thân mật,
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa.
Lòng quê dợn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
Bài thơ này được sử dụng trong sách giáo khoa Văn học 11 từ giai đoạn 1990 và Ngữ văn 11 từ năm 2007 đến nay, là tác phẩm tiêu biểu của thơ mới Việt Nam thập niên 1930 – 1940.
Hướng dẫn đọc và cảm nhận ban đầu
Để hiểu sâu và viết tốt bài văn so sánh 2 tác phẩm thơ Hoàng Hạc lâu và Tràng giang, người đọc cần có phương pháp tiếp cận đúng đắn ngay từ lần đọc đầu tiên. Với Hoàng Hạc lâu, nên đọc cả ba phiên bản: nghe phát âm tiếng Hán (nếu có thể) để cảm nhận âm vận của thơ Đường, đọc phiên âm Hán Việt để hiểu cấu trúc câu thơ và cuối cùng là đọc bản dịch nghĩa để nắm rõ nội dung.
Cần chú ý đến những từ lặp lại như hoàng hạc xuất hiện ba lần, tạo hiệu ứng nhấn mạnh. Cũng cần để ý đến sự đối lập giữa quá khứ và hiện tại, giữa hữu hình và vô hình, giữa cái tạm bợ và cái vĩnh hằng. Với Tràng giang, nên đọc chậm rãi để cảm nhận từng hình ảnh, từng chi tiết nhỏ mà Huy Cận khắc họa. Chú ý đến các từ láy như điệp điệp, lơ thơ, dợn dợn và cách chúng tạo nên nhịp điệu, âm hưởng đặc trưng của tiếng Việt. Cần cảm nhận sự chuyển động của không gian từ gần đến xa, từ cụ thể đến mơ hồ, từ bên ngoài vào tâm trạng bên trong.
Những lần đọc đầu tiên nên tập trung vào cảm xúc, hình ảnh tổng thể trước khi đi sâu vào phân tích chi tiết. Có thể ghi chép lại những ấn tượng ban đầu, những câu thơ làm mình xúc động nhất để sau này so sánh và phân tích sâu hơn.
Tổng quan về hai tác phẩm thơ Hoàng Hạc lâu và Tràng giang
Trước khi đi sâu vào việc viết bài văn nghị luận so sánh 2 tác phẩm Hoàng Hạc lâu và Tràng giang, chúng ta cần có cái nhìn tổng quan về nguồn gốc, bối cảnh và đặc điểm cơ bản của hai tác phẩm này. Hoàng Hạc lâu là sản phẩm của nền văn học cổ điển Trung Quốc thời kỳ hoàng kim, trong khi Tràng giang đại diện cho phong trào đổi mới thơ ca Việt Nam đầu thế kỷ 20.
Mỗi tác phẩm mang trong mình dấu ấn của thời đại, của văn hóa dân tộc và phong cách riêng của tác giả. Việc tìm hiểu kỹ lưỡng về hai bài thơ sẽ tạo nền tảng vững chắc cho quá trình phân tích và so sánh sau này. Phần này sẽ giới thiệu chi tiết về tác giả, hoàn cảnh sáng tác, nội dung và ý nghĩa của từng tác phẩm, giúp người đọc có cái nhìn toàn diện trước khi bước vào phần so sánh chuyên sâu.
Giới thiệu về tác phẩm Hoàng Hạc lâu của Thôi Hiệu
Hoàng Hạc lâu là một trong những bài thơ nổi tiếng nhất thời Đường, được Thôi Hiệu sáng tác khi ông đứng trên lầu Hoàng Hạc nhìn ra sông Dương Tử bao la. Lầu Hoàng Hạc nằm ở tỉnh Hồ Bắc, Trung Quốc, được xây dựng năm 223 thời Tam Quốc và trở thành một trong Tứ đại danh lâu của Trung Quốc. Tên gọi của lầu bắt nguồn từ truyền thuyết về Phí Vĩ, một tu sĩ đắc đạo thường cưỡi hạc vàng ngao du khắp nơi và từng dừng chân tại đây.
Bài thơ gồm tám câu thất ngôn, theo thể lục bát cổ phong, thể hiện cảm xúc của thi nhân khi đối diện với không gian rộng lớn của sông núi và thời gian vô tận. Thôi Hiệu đã khéo léo kết hợp giữa truyền thuyết cổ xưa với cảnh vật hiện tại, tạo nên một bức tranh đầy chất triết lý về sự vô thường của cuộc đời. Qua những hình ảnh như hạc vàng bay đi không trở lại, mây trắng ngàn năm vẫn phiêu diêu, tác giả gợi lên cảm giác mênh mông trước dòng chảy của thời gian và nỗi niềm của kẻ xa xứ nhớ về quê nhà.
Giới thiệu về tác phẩm Tràng giang của Huy Cận
Tràng giang là kiệt tác thơ tự do của Huy Cận, được sáng tác năm 1939 trong chuyến đi từ Huế vào Nam, tặng cho bạn thân là Trần Khánh Giư. Bài thơ gồm bốn khổ, mỗi khổ bốn câu, với nhịp thơ tự do uyển chuyển nhưng vẫn giữ được sự chặt chẽ về cấu trúc. Dòng sông trong thơ Huy Cận là dòng sông miền Trung Việt Nam, có thể là sông Hương, sông Gianh hay bất cứ dòng sông nào mang đậm chất sông nước miền Trung buồn thương.
Nếu Hoàng Hạc lâu thể hiện nỗi buồn của người lữ khách thời cổ đại, thì Tràng giang lại mang trong mình nỗi cô đơn của con người hiện đại, của trí thức trong thời kỳ đất nước nhiều biến động. Bài thơ được viết theo trường phái thơ mới, thừa hưởng tinh thần Bâng khuâng của thơ ca Trung Quốc nhưng đã được Việt hóa hoàn toàn về ngôn ngữ và tâm hồn. Những hình ảnh như sóng gợn buồn điệp điệp, củi một cành khô lạc mấy dòng, bèo giạt về đâu hàng nối hàng đã tạo nên một bức tranh sông nước đầy chất thơ, vừa cụ thể vừa trừu tượng, vừa gần gũi vừa xa vời.
Bối cảnh sáng tác và ý nghĩa của hai tác phẩm
Hai bài thơ ra đời cách nhau hơn một nghìn năm và thuộc hai nền văn học khác nhau, nhưng đều được sáng tác trong hoàn cảnh tác giả xa quê hương, đối diện với cảnh sông nước bao la. Thôi Hiệu sống vào thời Đường thịnh, thời kỳ văn học Trung Quốc phát triển rực rỡ với hàng ngàn thi nhân tài hoa. Ông viết Hoàng Hạc lâu khi đang lưu lạc tha phương, nỗi nhớ quê hương chan chứa trong từng câu thơ. Bài thơ không chỉ là sự miêu tả phong cảnh mà còn là sự trầm tư về thời gian, không gian và vị trí của con người trong vũ trụ mênh mông.
Trong khi đó, Huy Cận viết Tràng giang vào năm 1939, thời điểm Việt Nam đang trong thời kỳ thuộc Pháp, không khí chính trị căng thẳng, trí thức trong nước phải đối mặt với nhiều bất ổn. Bài thơ được tặng cho Trần Khánh Giư, một người bạn thân thiết, thể hiện tình cảm chân thành và nỗi niềm chia sẻ giữa những người cùng cảnh ngộ. Cả hai tác phẩm đều trở thành những kiệt tác bất hủ, được đưa vào chương trình giảng dạy văn học ở các bậc học, góp phần làm phong phú thêm kho tàng thơ ca dân tộc và thế giới.

Phương pháp viết bài văn nghị luận so sánh 2 tác phẩm Hoàng Hạc lâu và Tràng giang
Để viết một bài văn so sánh xuất sắc về hai tác phẩm thơ Hoàng Hạc lâu và Tràng giang, người viết cần trang bị cho mình phương pháp luận khoa học và kỹ thuật phân tích chuyên nghiệp. Không phải ai cũng biết cách tiếp cận một bài so sánh văn học một cách có hệ thống, từ việc xác định tiêu chí, lập dàn ý cho đến cách triển khai luận điểm và sử dụng dẫn chứng.
Phần này sẽ hướng dẫn chi tiết từng bước thực hiện, từ việc đọc hiểu tác phẩm, tìm kiếm điểm tương đồng và khác biệt, đến cách tổ chức bố cục bài viết sao cho logic và mạch lạc. Đây là những kỹ năng nền tảng không chỉ áp dụng cho việc so sánh hai tác phẩm này mà còn có thể vận dụng cho bất kỳ bài viết so sánh văn học nào khác, giúp người học phát triển tư duy phản biện và năng lực phân tích nghệ thuật.
Xác định các tiêu chí so sánh chính
Khi viết văn so sánh 2 tác phẩm Hoàng Hạc lâu và Tràng giang, điều đầu tiên cần làm là xác định rõ các tiêu chí so sánh. Không nên so sánh một cách tràn lan, thiếu trọng tâm mà phải chọn lọc những điểm có giá trị nhất để phân tích. Các tiêu chí thường được sử dụng bao gồm đề tài, chủ đề, hình thức thể loại, nghệ thuật ngôn ngữ, hình ảnh nghệ thuật và giá trị nội dung tư tưởng.
Về đề tài, cả hai bài thơ đều viết về cảnh sông nước, nhưng mỗi tác phẩm có một góc nhìn và cảm xúc riêng. Hoàng Hạc lâu tập trung vào cảnh quan hùng vĩ của sông Dương Tử nhìn từ lầu cao, trong khi Tràng giang lại miêu tả cảnh sông nước miền Trung Việt Nam với những chi tiết nhỏ nhặt, tỉ mỉ. Về thể loại, Hoàng Hạc lâu là thơ thất ngôn cổ phong của Trung Quốc, còn Tràng giang là thơ tự do theo trường phái thơ mới Việt Nam. Việc xác định rõ các tiêu chí so sánh giúp bài viết có cấu trúc chặt chẽ, logic và dễ theo dõi.
Lập dàn ý chi tiết trước khi viết
Lập sơ đồ tư duy so sánh 2 văn bản Hoàng Hạc lâu và Tràng giang là bước quan trọng để bài viết có chiều sâu và toàn diện. Dàn ý nên bao gồm ba phần chính: mở bài, thân bài và kết bài. Mở bài cần giới thiệu ngắn gọn về hai tác phẩm, tác giả và lý do chọn so sánh.
Phần thân bài là phần quan trọng nhất, cần chia thành nhiều đoạn nhỏ, mỗi đoạn phân tích một tiêu chí so sánh cụ thể. Ví dụ, đoạn đầu tiên có thể bàn về điểm giống nhau giữa Hoàng Hạc lâu và Tràng giang như cùng viết về cảnh sông nước, cùng thể hiện nỗi buồn xa quê. Đoạn tiếp theo phân tích những điểm khác biệt về đề tài và hình thức thể loại giữa hai bài thơ Tràng giang và Hoàng Hạc lâu, chẳng hạn như sự khác biệt về cách nhìn nhận cảnh vật, về phong cách ngôn ngữ và cấu trúc thơ.
Đoạn cuối của thân bài nên đánh giá tổng thể giá trị nghệ thuật và ý nghĩa của hai tác phẩm. Kết bài cần tổng kết lại những điểm chính đã phân tích và khẳng định vị trí, giá trị của hai bài thơ trong lịch sử văn học. Một dàn ý chi tiết giúp người viết không bỏ sót nội dung quan trọng và giữ được mạch văn mạch lạc xuyên suốt.
Kỹ thuật phân tích và dẫn chứng thuyết phục
Trong quá trình viết bài văn so sánh, việc sử dụng dẫn chứng cụ thể từ tác phẩm là vô cùng quan trọng. Không nên đưa ra nhận xét chung chung mà phải trích dẫn những câu thơ tiêu biểu để minh họa cho luận điểm.
Ví dụ, khi phân tích về hình ảnh thời gian trong Hoàng Hạc lâu, có thể trích dẫn câu Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản, bạch vân thiên tải không du du để chứng minh cảm giác mênh mông trước dòng chảy thời gian. Tương tự, khi bàn về nỗi cô đơn trong Tràng giang, nên trích dẫn những câu thơ như Lòng quê dợn dợn vời con nước, không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà để làm rõ tâm trạng của tác giả. Mỗi dẫn chứng cần được giải thích, phân tích kỹ lưỡng về mặt hình ảnh, ngôn ngữ và ý nghĩa.
Ngoài ra, có thể tham khảo ý kiến của các nhà nghiên cứu, phê bình văn học để bài viết có chiều sâu hơn. Kỹ thuật so sánh đối chiếu giữa hai tác phẩm cũng rất quan trọng, nên đặt các điểm giống và khác nhau song song với nhau để người đọc dễ nhận thấy. Việc phân tích có hệ thống, logic và có căn cứ sẽ làm cho bài viết trở nên thuyết phục và chuyên nghiệp.
Văn mẫu so sánh hai tác phẩm thơ Hoàng Hạc lâu và Tràng giang
Sau khi đã nắm vững phương pháp luận và các kỹ thuật viết bài so sánh, phần quan trọng nhất là xem một bài văn mẫu hoàn chỉnh được triển khai như thế nào. Văn mẫu không chỉ đơn thuần là một bài viết để tham khảo mà còn là công cụ học tập hiệu quả, giúp người đọc hình dung rõ ràng cách áp dụng lý thuyết vào thực tế.
Bài văn mẫu dưới đây sẽ trình bày đầy đủ các phần từ mở bài, thân bài đến kết bài, với sự phân tích chi tiết về điểm giống, điểm khác, nghệ thuật ngôn ngữ và giá trị tư tưởng của hai tác phẩm. Mỗi luận điểm đều được minh họa bằng những dẫn chứng cụ thể từ bài thơ, giúp bài viết có tính thuyết phục cao. Người đọc có thể học hỏi cách sắp xếp ý tưởng, cách diễn đạt và cách kết nối các phần với nhau để tạo thành một bài viết hoàn chỉnh, mạch lạc.
Mở bài: Giới thiệu và đặt vấn đề
Trong kho tàng thơ ca Á Đông, cảnh sông nước luôn là nguồn cảm hứng bất tận cho các nhà thơ qua nhiều thời đại. Hoàng Hạc lâu của Thôi Hiệu và Tràng giang của Huy Cận là hai tuyệt tác cùng khắc họa vẻ đẹp sông nước nhưng mang những nét riêng biệt về phong cách nghệ thuật và tâm hồn.
Bài thơ của Thôi Hiệu được sáng tác vào thế kỷ thứ 8, thời kỳ hoàng kim của thơ Đường, thể hiện nỗi niềm của người lữ khách đứng trên lầu Hoàng Hạc nhìn ra sông Dương Tử mênh mông. Trong khi đó, Tràng giang của Huy Cận ra đời năm 1939, là một trong những kiệt tác của thơ mới Việt Nam, ghi lại hình ảnh dòng sông miền Trung buồn man mác cùng nỗi cô đơn sâu lắng của trí thức trong thời loạn. Dù cách nhau hơn nghìn năm và thuộc hai nền văn học khác biệt, cả hai tác phẩm đều để lại dấu ấn mạnh mẽ trong lòng người yêu thơ.
Bài viết này sẽ phân tích, so sánh hai bài thơ theo các tiêu chí về đề tài, hình thức, nghệ thuật và giá trị tư tưởng, từ đó làm rõ nét độc đáo của mỗi tác phẩm cũng như những điểm tương đồng đáng chú ý giữa chúng.
Phần thân bài: Điểm giống nhau giữa Hoàng Hạc lâu và Tràng giang
Trước hết, cả hai bài thơ đều chọn cảnh sông nước làm đề tài chính, qua đó bộc lộ tâm tư tình cảm của tác giả. Hoàng Hạc lâu miêu tả vẻ hùng vĩ của sông Dương Tử nhìn từ lầu cao, còn Tràng giang khắc họa hình ảnh dòng sông miền Trung Việt Nam buồn bã, cô liêu. Tuy khác nhau về không gian địa lý và phong cách miêu tả, nhưng cả hai đều sử dụng hình ảnh sông nước để gợi lên những cảm xúc sâu lắng về cuộc đời.
Điểm giống nhau thứ hai là cả hai bài thơ đều thể hiện nỗi buồn xa quê, nỗi niềm của kẻ lữ hành. Trong Hoàng Hạc lâu, Thôi Hiệu viết Nhật mộ hương quan hà xứ thị, yên ba giang thượng sử nhân sầu (Trời về chiều tối, tự hỏi quê nhà nơi đâu? Trên sông khói toả, sóng gợn, khiến người sinh buồn), thể hiện rõ nỗi nhớ quê hương khi xa cách.
Tương tự, Huy Cận trong Tràng giang cũng viết Lòng quê dợn dợn vời con nước, không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà, nỗi nhớ nhà ấy không cần có khói làng mà chỉ cần nhìn dòng sông buồn là đã trào dâng. Điểm giống thứ ba là cả hai đều mang màu sắc triết lý về thời gian và không gian. Thôi Hiệu viết về sự vô thường của thời gian qua hình ảnh hạc vàng bay đi không trở lại, mây trắng ngàn năm vẫn phiêu diêu, còn Huy Cận cũng thể hiện cảm giác mênh mông, bâng khuâng trước thiên nhiên rộng lớn qua những câu thơ như Nắng xuống, trời lên sâu chót vót; Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.
Cả hai bài thơ đều tạo ra cảm giác về sự nhỏ bé của con người trước vũ trụ bao la và dòng chảy không ngừng của thời gian.

Phần thân bài: Những điểm khác biệt về đề tài và hình thức thể loại giữa hai bài thơ Tràng giang và Hoàng Hạc lâu
Bên cạnh những điểm tương đồng, hai tác phẩm có nhiều điểm khác biệt rõ rệt. Về hình thức, Hoàng Hạc lâu là thơ cổ phong Trung Quốc, thể thất ngôn bát cú, mỗi câu bảy chữ, tổng cộng tám câu với vần điệu chặt chẽ theo luật thơ Đường.
Ngược lại, Tràng giang được viết theo thể thơ tự do của trường phái thơ mới Việt Nam, không bị ràng buộc bởi luật vần chặt chẽ nhưng vẫn có nhịp điệu trong trẻo, uyển chuyển. Về đề tài và góc nhìn, Hoàng Hạc lâu mang tầm nhìn bao quát, từ trên cao nhìn xuống, từ quá khứ huyền thoại với truyền thuyết tiên cưỡi hạc vàng đến hiện tại với cảnh sông núi hùng vĩ. Bài thơ có chiều sâu lịch sử, gắn với văn hóa Trung Hoa về tiên cảnh, về sự trường tồn của thiên nhiên trước sự phù du của con người.
Trong khi đó, Tràng giang tập trung vào những chi tiết nhỏ nhặt, gần gũi: sóng gợn, con thuyền, củi một cành khô, cồn nhỏ, bèo giạt… Huy Cận không viết về quá khứ huyền thoại mà chỉ miêu tả cảnh vật hiện tại với cái nhìn tỉ mỉ, đầy chất thơ của người nghệ sĩ hiện đại. Về ngôn ngữ, thơ Thôi Hiệu mang âm hưởng cổ điển, dùng nhiều từ Hán, hình ảnh có tính biểu tượng cao.
Còn Huy Cận sử dụng tiếng Việt thuần túy, ngôn ngữ gần gũi đời thường nhưng được sắp xếp tinh tế, tạo nên vẻ đẹp mới mẻ, hiện đại. Một điểm khác biệt nữa là cảm xúc: nỗi buồn trong Hoàng Hạc lâu mang tính bi tráng, hùng vĩ, còn trong Tràng giang là nỗi buồn man mác, nhẹ nhàng nhưng sâu lắng, gần gũi với tâm hồn người Việt Nam.
Phần thân bài: Nghệ thuật ngôn ngữ và hình ảnh thơ
Về nghệ thuật ngôn ngữ, cả hai bài thơ đều thể hiện trình độ cao của tác giả nhưng theo những phong cách khác nhau. Hoàng Hạc lâu sử dụng nhiều biện pháp tu từ đặc trưng của thơ Đường như liệp tự (lặp chữ), đối ngẫu và ẩn dụ.
Cụm hoàng hạc được lặp lại ba lần trong bốn câu đầu, tạo hiệu ứng nhấn mạnh và in sâu vào tâm trí người đọc. Hai câu Tình xuyên lịch lịch Hán Dương thụ, Phương thảo thê thê Anh Vũ châu là cặp đối tượng xứng với nhau về cả hình thức lẫn nội dung, thể hiện sự cân đối hài hòa trong thơ Đường. Còn Tràng giang của Huy Cận sử dụng kỹ thuật lặp hình ảnh và âm thanh để tạo nhịp điệu. Chữ buồn điệp điệp, lơ thơ, mênh mông, dợn dợn là những từ láy đặc trưng của tiếng Việt, vừa mang âm điệu du dương vừa gợi cảm xúc mơ hồ.
Hình ảnh thơ trong hai tác phẩm cũng có nét riêng. Hoàng Hạc lâu xây dựng hình ảnh từ tổng thể đến chi tiết: từ huyền thoại hạc vàng bay xa, đến mây trắng ngàn năm, rồi xuống cây cối Hán Dương, cỏ xanh Anh Vũ, cuối cùng là khói sóng trên sông. Mỗi hình ảnh đều mang ý nghĩa biểu tượng sâu sắc. Ngược lại, Tràng giang xây dựng hình ảnh từ những chi tiết nhỏ nhặt, cụ thể: thuyền xuôi, sóng gợn, củi khô, cồn nhỏ, bèo giạt…
Những hình ảnh này không mang tính biểu tượng cao nhưng lại gần gũi, chân thực và đầy tính gợi cảm. Cả hai cách sử dụng hình ảnh đều xuất sắc, phù hợp với phong cách và thời đại của mỗi tác giả.
Phần thân bài: Giá trị tư tưởng và nghệ thuật
Dân ý so sánh 2 tác phẩm thơ Hoàng Hạc lâu và Tràng giang thường đều đánh giá cao giá trị tư tưởng và nghệ thuật của cả hai. Hoàng Hạc lâu được xem là một trong những kiệt tác của thơ Đường, thể hiện triết lý sâu sắc về thời gian, không gian và vị trí của con người trong vũ trụ.
Bài thơ không chỉ miêu tả phong cảnh mà còn chứa đựng những suy tư về sự vô thường, về dòng chảy không ngừng của lịch sử. Người xưa đã đi, hạc vàng đã bay, chỉ còn lại mây trắng và sông nước vẫn mãi mãi ở đó. Đây là cảm giác bi tráng mà bất kỳ ai đối diện với thời gian cũng đều cảm nhận được. Bài thơ đã truyền cảm hứng cho vô số thi nhân sau này và trở thành một biểu tượng văn hóa của Trung Quốc.
Trong khi đó, Tràng giang mang giá trị tư tưởng đặc trưng của thơ mới Việt Nam, thể hiện tâm hồn trí thức hiện đại với nỗi cô đơn, bâng khuâng trước cuộc đời. Bài thơ không bi tráng hùng vĩ như Hoàng Hạc lâu nhưng lại gần gũi, sâu lắng và chạm đến trái tim người đọc bằng những chi tiết giản dị, chân thực. Huy Cận đã thành công trong việc Việt hóa tinh thần Bâng khuâng của thơ ca Trung Quốc, tạo nên một phong cách thơ mới hoàn toàn mang bản sắc dân tộc.
Về mặt nghệ thuật, cả hai bài thơ đều đạt đến đỉnh cao của sự tinh tế trong ngôn ngữ, hình ảnh và cảm xúc. Hoàng Hạc lâu là mẫu mực của thơ cổ điển với vần luật chặt chẽ, ngôn ngữ cô đọng và hình ảnh biểu tượng. Tràng giang là điển hình của thơ tự do hiện đại với ngôn ngữ gần gũi, hình ảnh cụ thể và cảm xúc tinh tế. Cả hai đều xứng đáng là những tác phẩm kinh điển được nghiên cứu và yêu thích qua nhiều thế hệ.
Kết bài: Đánh giá tổng thể
Qua việc viết bài văn so sánh, đánh giá 2 tác phẩm là Tràng giang và Hoàng Hạc lâu, chúng ta thấy rõ mỗi tác phẩm đều có những nét độc đáo riêng nhưng cũng có nhiều điểm tương đồng đáng chú ý. Hoàng Hạc lâu là kiệt tác của thơ cổ điển Trung Quốc với vẻ đẹp bi tráng, hùng vĩ và chiều sâu triết lý về thời gian, lịch sử. Tràng giang là tuyệt tác của thơ mới Việt Nam với vẻ đẹp nhẹ nhàng, sâu lắng và gần gũi với tâm hồn người Việt.
Cả hai bài thơ đều thể hiện tài năng xuất chúng của tác giả trong việc sử dụng ngôn ngữ, xây dựng hình ảnh và truyền tải cảm xúc. Dù thuộc hai thời đại, hai nền văn hóa khác nhau nhưng chúng đều chạm đến những giá trị nhân văn vĩnh cửu: nỗi nhớ quê hương, cảm giác mênh mông trước thiên nhiên và sự trầm tư về ý nghĩa cuộc đời.
Việc so sánh hai tác phẩm không chỉ giúp chúng ta hiểu sâu hơn về mỗi bài thơ mà còn mở rộng tầm nhìn về nghệ thuật thơ ca, về sự đa dạng và phong phú của văn học nhân loại. Cả Hoàng Hạc lâu và Tràng giang đều là những viên ngọc quý trong kho tàng thơ ca, xứng đáng được trân trọng và lưu truyền qua các thế hệ.
Các lưu ý quan trọng khi viết bài văn nghị luận so sánh 2 tác phẩm Hoàng Hạc lâu và Tràng giang
Ngoài việc nắm vững phương pháp và tham khảo văn mẫu, người viết còn cần chú ý đến những điểm quan trọng để tránh mắc phải các lỗi thường gặp và nâng cao chất lượng bài viết. Không ít học sinh có kiến thức tốt về tác phẩm nhưng lại không biết cách trình bày, dẫn chứng hoặc tổ chức bố cục hợp lý, khiến bài viết không đạt được hiệu quả mong muốn.
Phần này sẽ chỉ ra những sai lầm phổ biến mà học sinh thường mắc phải khi viết bài so sánh, từ đó đưa ra các giải pháp khắc phục cụ thể. Đồng thời, phần này cũng cung cấp những mẹo nhỏ để tăng điểm cho bài viết, cách khai thác tư liệu hiệu quả và cách tạo ấn tượng với người chấm bài. Những lưu ý này được rút ra từ kinh nghiệm thực tế của nhiều nhà giáo và học sinh xuất sắc, giúp người học tránh được những vấp váp không đáng có.
Tránh các lỗi thường gặp trong bài viết so sánh
Khi thực hiện bài viết so sánh hai tác phẩm văn học, học sinh thường mắc phải một số lỗi phổ biến cần tránh.
Lỗi đầu tiên là thiếu cân đối giữa hai tác phẩm, chỉ tập trung phân tích kỹ một tác phẩm trong khi sơ sài với tác phẩm còn lại. Điều này làm mất đi tính khách quan và toàn diện của bài viết so sánh.
Lỗi thứ hai là liệt kê những điểm giống và khác một cách máy móc, không phân tích sâu mà chỉ nêu hiện tượng bề ngoài. Ví dụ, chỉ nói cả hai bài thơ đều viết về sông nước mà không giải thích cách nhìn nhận sông nước của mỗi tác giả khác nhau như thế nào, tạo nên hiệu quả nghệ thuật gì.
Lỗi thứ ba là trích dẫn quá nhiều hoặc quá ít. Trích dẫn quá nhiều khiến bài viết trở nên nặng nề, thiếu đi giọng văn của người viết. Trích dẫn quá ít lại khiến luận điểm thiếu cơ sở thuyết phục. Cần cân nhắc trích dẫn đúng lúc, đúng chỗ để minh họa cho luận điểm.
Lỗi thứ tư là không có quan điểm cá nhân, chỉ lặp lại những nhận xét chung chung từ sách giáo khoa mà không có suy nghĩ riêng. Bài viết tốt cần thể hiện được cảm nhận, hiểu biết của người viết về tác phẩm, không nhất thiết phải khác biệt hoàn toàn nhưng phải chân thành và có chiều sâu.

Cách khai thác nguồn tư liệu một cách hiệu quả
Để viết bài văn nghị luận so sánh 2 tác phẩm Hoàng Hạc lâu và Tràng giang một cách xuất sắc, việc khai thác nguồn tư liệu đóng vai trò quan trọng. Trước hết, cần đọc kỹ cả hai bài thơ nhiều lần, không chỉ đọc bản dịch mà còn nên tìm hiểu bản gốc nếu có thể.
Với Hoàng Hạc lâu, cần đọc cả phiên âm và bản dịch nghĩa để hiểu rõ ý nghĩa từng câu thơ. Tiếp theo, nên tìm đọc các bài phân tích, bình luận của các nhà nghiên cứu văn học về hai tác phẩm này. Những nguồn tài liệu chính thống như sách giáo khoa, sách tham khảo văn học, các bài viết trên tạp chí văn học uy tín sẽ cung cấp những thông tin chính xác và quan điểm đa chiều. Ngoài ra, cần tìm hiểu về bối cảnh lịch sử, văn hóa của thời đại mà tác phẩm ra đời.
Hiểu được thời đại của Thôi Hiệu và Huy Cận sẽ giúp người viết nắm bắt được những nét tâm tư, nguyện vọng của tác giả. Cũng nên tìm hiểu về đời sống, sự nghiệp sáng tác của hai tác giả để hiểu rõ hơn về phong cách nghệ thuật của họ. Khi tham khảo tư liệu, cần ghi chép lại những ý chính, những câu trích dẫn hay và nguồn gốc của nó để dễ sử dụng khi viết bài. Tuy nhiên, tuyệt đối không được sao chép nguyên xi mà phải biết tiếp thu, tổng hợp và diễn đạt lại bằng ngôn ngữ của mình.
Mẹo tăng điểm cho bài viết
Để bài viết đạt điểm cao, ngoài việc nắm vững kiến thức và kỹ năng phân tích, học sinh cần chú ý một số mẹo nhỏ.
Thứ nhất, cần có một mở bài ấn tượng, không quá dài dòng nhưng phải thu hút được sự chú ý của người đọc. Có thể bắt đầu bằng một câu hỏi tu từ, một trích dẫn hay hoặc một nhận xét mang tính khái quát về vấn đề cần bàn.
Thứ hai, phần thân bài cần được chia thành các đoạn rõ ràng, mỗi đoạn tập trung vào một ý chính. Giữa các đoạn cần có câu chuyển tiếp tự nhiên để bài viết mạch lạc, liền mạch.
Thứ ba, nên sử dụng đa dạng các phương pháp so sánh như so sánh điểm giống, so sánh điểm khác, so sánh theo từng tiêu chí cụ thể. Việc đa dạng hóa phương pháp giúp bài viết sinh động và toàn diện hơn.
Thứ tư, ngôn ngữ cần rõ ràng, mạch lạc, tránh dùng từ ngữ sáo rỗng hay quá hoa mỹ. Câu văn nên ngắn gọn, dễ hiểu nhưng vẫn đảm bảo tính học thuật.
Thứ năm, kết bài cần tổng kết lại những vấn đề đã bàn và có thể nêu lên ý nghĩa, giá trị của việc so sánh hai tác phẩm.
Một kết bài tốt sẽ để lại ấn tượng sâu sắc cho người đọc. Cuối cùng, sau khi viết xong cần đọc lại toàn bài để kiểm tra lỗi chính tả, ngữ pháp và điều chỉnh những chỗ chưa mạch lạc.
Mở rộng: So sánh Tràng giang với các tác phẩm khác
Sau khi đã thành thạo việc so sánh Tràng giang với Hoàng Hạc lâu, người học có thể mở rộng khả năng phân tích bằng cách so sánh Tràng giang với nhiều tác phẩm khác trong kho tàng văn học Việt Nam. Việc mở rộng phạm vi so sánh không chỉ giúp củng cố kiến thức về Tràng giang mà còn phát triển tư duy đa chiều, khả năng nhìn nhận tác phẩm từ nhiều góc độ khác nhau.
Mỗi lần so sánh với một tác phẩm mới lại mang đến những phát hiện thú vị về đặc điểm nghệ thuật, phong cách sáng tác và giá trị tư tưởng. Phần này sẽ hướng dẫn cách so sánh Tràng giang với các tác phẩm cùng thời hoặc khác thời, cùng thể loại hoặc khác thể loại, từ đó giúp người học có cái nhìn toàn diện hơn về văn học Việt Nam nói riêng và nghệ thuật thơ ca nói chung.
Viết bài văn so sánh, đánh giá 2 tác phẩm là Tràng giang và Tiếng thu
Nếu như việc so sánh Tràng giang với Hoàng Hạc lâu đã mang lại nhiều phát hiện thú vị, thì việc so sánh Tràng giang với Tiếng thu của Nguyễn Khuyến lại càng cho thấy sự đa dạng của thơ ca Việt Nam. Cả hai bài thơ đều là những tuyệt tác viết về thiên nhiên gắn với tâm trạng con người, nhưng mỗi tác phẩm lại thuộc về một thời đại và phong cách khác nhau. Tiếng thu là thơ Đường luật của Nguyễn Khuyến, viết theo thể thất ngôn tứ tuyệt với vần điệu chặt chẽ, thể hiện vẻ đẹp thanh tao, điềm đạm của mùa thu quê hương.
Trong khi đó, Tràng giang là thơ tự do của Huy Cận, không bị ràng buộc bởi luật vần nhưng vẫn tạo nên nhịp điệu uyển chuyển, thể hiện nỗi cô đơn buồn man mác của con người hiện đại. Về đề tài, Tiếng thu tập trung vào không gian làng quê với những âm thanh quen thuộc: tiếng dế, tiếng khóm tre, tiếng sáo diều… tất cả hòa quyện tạo nên bức tranh mùa thu Bắc Bộ đầy hoài niệm. Tràng giang lại viết về không gian sông nước miền Trung với những hình ảnh cô liêu, trống vắng: sóng gợn, thuyền xuôi, cồn nhỏ, bèo giạt.
Về tâm trạng, cả hai đều thể hiện nỗi nhớ nhà, nhớ quê nhưng Tiếng thu mang âm hưởng hoài cổ, bình yên trong khi Tràng giang lại mang nặng cảm giác bâng khuâng, cô đơn của người hiện đại. Việc so sánh hai tác phẩm này giúp học sinh hiểu rõ hơn về sự chuyển biến của thơ ca Việt Nam từ cổ điển sang hiện đại, từ thơ Đường luật sang thơ tự do.

Giá trị của việc mở rộng so sánh
Việc mở rộng so sánh Tràng giang với nhiều tác phẩm khác không chỉ giúp học sinh nắm vững hơn về tác phẩm này mà còn phát triển tư duy phản biện và khả năng cảm thụ nghệ thuật. Khi so sánh Tràng giang với Hoàng Hạc lâu, ta thấy được sự khác biệt giữa thơ Trung Quốc và thơ Việt Nam, giữa thơ cổ điển và thơ hiện đại.
Khi so sánh với Tiếng thu, ta nhận ra sự chuyển biến của thơ ca Việt Nam qua các giai đoạn lịch sử. Ngoài ra, có thể so sánh Tràng giang với các tác phẩm khác của Huy Cận như Chiều tối, Dòng sông quê để thấy được nét riêng trong phong cách sáng tác của ông. Cũng có thể so sánh với các tác phẩm cùng thời của các nhà thơ khác như Sóng của Xuân Diệu, Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử để thấy được sự đa dạng của thơ mới Việt Nam thập niên 1930 – 1940. Mỗi góc độ so sánh lại mở ra một khía cạnh mới về tác phẩm, giúp người học hiểu sâu hơn, toàn diện hơn.
Đây cũng là cách rèn luyện tư duy phê phán văn học, một kỹ năng quan trọng không chỉ trong học tập mà còn trong cuộc sống. Việc biết nhìn nhận, đánh giá, so sánh các hiện tượng văn hóa, nghệ thuật sẽ giúp con người có cái nhìn sâu sắc và toàn diện hơn về thế giới xung quanh.
Hướng dẫn thực hành viết mở rộng
Để thực hành viết bài mở rộng so sánh Tràng giang với các tác phẩm khác, học sinh cần có một quy trình làm việc khoa học.
Bước đầu tiên là chọn tác phẩm để so sánh, nên chọn những tác phẩm có điểm tương đồng về đề tài hoặc có sự tương phản thú vị về phong cách.
Bước thứ hai là đọc kỹ cả hai tác phẩm và ghi chép lại những ấn tượng ban đầu, những điểm đặc sắc của mỗi tác phẩm.
Bước thứ ba là xác định các tiêu chí so sánh cụ thể như đề tài, thể loại, ngôn ngữ, hình ảnh, cảm xúc, giá trị tư tưởng.
Bước thứ tư là lập dàn ý chi tiết, phân bố nội dung hợp lý cho từng phần của bài viết.
Bước thứ năm là triển khai viết bài, chú ý sử dụng dẫn chứng cụ thể, phân tích sâu sắc và có quan điểm cá nhân.
Bước cuối cùng là đọc lại, chỉnh sửa và hoàn thiện bài viết. Trong quá trình thực hành, học sinh có thể tham khảo các bài viết mẫu nhưng không nên sao chép mà phải tự mình suy nghĩ và viết.
Có thể bắt đầu với những bài so sánh đơn giản, sau đó dần dần nâng cao độ khó. Thực hành thường xuyên sẽ giúp học sinh nâng cao kỹ năng viết và khả năng phân tích văn học một cách toàn diện.
Kết luận
Qua bài viết chi tiết về cách viết bài văn nghị luận so sánh 2 tác phẩm Hoàng Hạc lâu và Tràng giang, chúng ta đã cùng tìm hiểu phương pháp tiếp cận, kỹ thuật phân tích và cách triển khai một bài viết so sánh hoàn chỉnh. Hoàng Hạc lâu của Thôi Hiệu và Tràng giang của Huy Cận là hai kiệt tác thơ ca thuộc hai nền văn hóa, hai thời đại khác nhau nhưng đều chạm đến những giá trị nhân văn vĩnh cửu. Việc so sánh hai tác phẩm không chỉ giúp chúng ta hiểu sâu hơn về mỗi bài thơ mà còn mở rộng tầm nhìn về nghệ thuật thơ ca, về sự phong phú và đa dạng của văn học.
Để viết tốt một bài văn so sánh, học sinh cần nắm vững kiến thức về tác phẩm, có phương pháp phân tích khoa học, biết sử dụng dẫn chứng thuyết phục và thể hiện được quan điểm cá nhân. Ngoài ra, cần chú ý đến kỹ thuật trình bày, ngôn ngữ và cách khai thác tư liệu một cách hiệu quả. Hy vọng bài viết này đã cung cấp đầy đủ thông tin, kiến thức và kỹ năng cần thiết để người đọc có thể tự tin thực hiện bài viết so sánh chuyên nghiệp. Hãy thực hành thường xuyên, đọc nhiều tác phẩm văn học và không ngừng rèn luyện để nâng cao trình độ viết lách của mình. Chúc các bạn thành công trong việc chinh phục thể loại văn nghị luận so sánh và phát triển niềm đam mê với văn học!

- viet-lach (371)
- ky-nang-viet (166)
- ngu-van (54)
- van-nghi-luan (31)
- ngu-van-cap-2 (44)
- ngu-van-cap-3 (52)
- ngu-van-lop-6 (38)
- ngu-van-lop-7 (38)
- ngu-van-lop-8 (38)
- ngu-van-lop-9 (38)
- van-nghi-luan-lop-6 (62)
- van-nghi-luan-lop-7 (31)
- van-nghi-luan-lop-8 (31)
- van-nghi-luan-lop-9 (31)
- van-nghi-luan-lop-6 (62)
- bai-van-nghi-luan-mau-lop-6 (31)
- bai-van-nghi-luan-mau-lop-7 (31)
- bai-van-nghi-luan-mau-lop-8 (31)
- bai-van-nghi-luan-mau-lop-9 (31)
- kien-thuc-ngu-van (54)
- van-nghi-luan-hoang-hac-lau (1)
- van-nghi-luan-trang-giang (1)
- thoi-hieu (2)
- huy-can (3)
- van-hoc-trung-quoc (174)
- van-hoc-viet-nam (669)
- van-mau (17)
- nghi-luan-van-hoc (25)
- hoang-hac-lau (3)
- trang-giang (2)