Vũ Như Tô
Nguyễn Huy Tưởng là kịch gia hàng đầu của Việt Nam, một trong những tác phẩm được biết đến rộng rãi của ông là Vũ Như Tô.
| 51 phút đọc | lượt xem.
Vũ Như Tô (1941) của Nguyễn Huy Tưởng là một trong những bi kịch lịch sử vĩ đại nhất của sân khấu Việt Nam hiện đại, được ví như Hamlet của Việt Nam hay Macbeth trên nền Thăng Long. Tác phẩm lấy bối cảnh triều Lê Tương Dực (1510–1516), tái hiện cuộc đời và cái chết bi thảm của bậc đại tài kiến trúc Vũ Như Tô – người được vua Lê ủy thác xây Cửu trùng đài, công trình đồ sộ nhất thời bấy giờ, biểu tượng cho dục vọng quyền lực và khát khao nghệ thuật tuyệt đối.
Qua năm hồi, vở kịch đặt nhân vật chính trước nghịch lý đau đớn: tài năng càng lớn càng trở thành tai họa. Vũ Như Tô mượn tay bạo chúa để thực hiện mộng lớn tô điểm non sông, nhưng chính kỳ công ấy đã hút khô máu dân, gây đói kém, dịch lệ, nổi loạn. Dân chúng oán trách, thợ thuyền phản bội, triều thần chia rẽ, cung nữ ghen tuông, cuối cùng Cửu trùng đài vừa thành hình đã bị thiêu rụi trong biển lửa kinh thành, còn Vũ Như Tô bị phanh thây giữa tiếng reo hò của đám đông cuồng nộ. Bên cạnh ông là Đan Thiềm – người cung nữ duy nhất hiểu và đồng hành cùng lý tưởng nghệ thuật của ông đến hơi thở cuối cùng, tạo nên một mối tình tri kỷ thuần khiết giữa chốn nhơ nhớp cung cấm.
Bằng ngôn ngữ thơ giàu nhạc tính, cấu trúc cổ điển năm hồi chặt chẽ và những đoạn độc thoại nội tâm day dứt, Nguyễn Huy Tưởng đã dựng nên một bi kịch cổ điển đích thực: xung đột không khoan nhượng giữa nghệ thuật thuần túy và hiện thực xã hội, giữa khát vọng trường tồn của cái Đẹp và sức mạnh tàn bạo của đám đông, giữa lòng trung nghĩa với dân tộc và sự ngông cuồng của thiên tài. Tác phẩm không chỉ là lời buộc tội bạo chúa và nghệ sĩ mộng mị, mà còn là câu hỏi day dứt muôn đời: cái giá của một kỳ công có đáng bằng máu xương muôn dân hay không? Hơn tám thập kỷ trôi qua, Vũ Như Tô vẫn là tiếng chuông cảnh tỉnh vang vọng mỗi khi nghệ thuật và quyền lực lại quyến rũ, giết chết lẫn nhau.
Nhân vật
Lê Tương Dực: Vua nhà Lê 24 tuổi.
Kim Phượng: Thứ phi 20 tuổi.
Trịnh Duy Sản: Quận công 60 tuổi.
Nguyễn Vũ: Đông các đại học sĩ 52 tuổi.
Lê An: Công bộ thượng thư 58 tuổi.
Vũ Như Tô: Kiến trúc sư 40 tuổi.
Đan Thiềm: Cung nữ 38 tuổi.
Thị Nhiên: Vợ Vũ Như Tô 40 tuổi.
Hai Quát: Phó đốc công.
Phó Bảo: Phó nề.
Phó Cõi: Phó mộc.
Phó Toét: Phó đúc.
Phó Độ: Phó chạm.
Lê Trung Mại: Thái giám 42 tuổi.
Ngô Hạch: Võ sĩ của Trịnh Duy Sản 25 tuổi.
Thái tử Chiêm Thành: 18 tuổi.
Thợ, Nội giám, Cung nữ, Quân sĩ.
Hồi thứ nhất
Một cung cấm của vua Lê.
Trong một cung cấm sâu thẳm của vua Lê Tương Dực, không khí xa hoa trụy lạc bao trùm. Nhà vua đang say sưa với mộng tưởng xây dựng Cửu trùng đài – một công trình đồ sộ chưa từng có, biểu tượng cho quyền uy và dục vọng cá nhân. Giữa những lời tấu trình nịnh hót của Kim Phượng cùng đám cung nữ diêm dúa, số phận của bậc đại tài Vũ Như Tô dần được hé lộ. Từ kẻ bị đóng cũi giải về kinh vì dám trốn tránh, qua những lời khuyên bảo đầy trí tuệ của Đan Thiềm, Vũ Như Tô đã chuyển từ cương quyết khước từ sang chấp thuận đảm nhận công trình, với điều kiện triều đình phải trọng đãi thợ thuyền như sĩ đại phu. Cảnh tượng chuyển biến đầy kịch tính, báo hiệu bi kịch sắp đến cho cả nghệ sĩ tài hoa lẫn bạo chúa ngông cuồng.
Lớp I – IV
Lê Tương Dực, Kim Phượng, Cung nữ (ăn mặc diêm dúa), sau thêm Đan Thiềm, Lê An, Nội giám.
Kim Phượng: Tâu Hoàng thượng, có việc chi mà mặt rồng hớn hở. Việc bang giao với Trung Quốc đã xong xuôi hay sao?
Lê Tương Dực: Có phải đâu công việc ấy, trẫm mặc triều đình. Nội giám bay! Đem rượu trẫm uống. Trẫm vui đây là về việc Cửu trùng đài.
Kim Phượng: Cửu trùng đài!
Lê Tương Dực: Mộng của trẫm sắp thành. Trời quá yêu cho trẫm một người thợ giỏi. Suốt một năm trời tìm kiếm cũng không uổng công.
Kim Phượng: Tâu Hoàng thượng đó là ai?
Lê Tương Dực: Vũ Như Tô.
Kim Phượng: Vũ Như Tô!
Lê Tương Dực: Bấy lâu nay bao nhiêu thợ trong nội, bao nhiêu thợ chốn kinh kỳ, bao nhiêu thợ địa phương, trẫm đều không vừa ý. Rặt là phường tiểu xảo, không ai có quy mô to tát. Trẫm đã xuống chiếu cầu người tài. Nhiều quan đề bạt Vũ Như Tô. Trẫm cũng biết tiếng. Nhưng hắn ngu si, làm cao, còn đem vợ con đi trốn. Nay hắn bị đóng cũi giải về, rõ tự mình chuốc khổ, chứ có làm chi nên tội?
Kim Phượng: Thực là giống ngu si. Đứa thợ quèn thì chỉ chết già ở hang cùng ngõ hẻm! Mấy kẻ đã được quân vương biết tới? Hay là để người đời phê phán như bèo. Thực là giống ngu si.
Lê Tương Dực: Nhưng hắn là một người thợ có hoa tay tuyệt thế, chạm trổ, nạm đục, xây dựng không kém đường gì. Lại có tài đào muôn kiểu hồ, vẽ những vườn hoa lộng lẫy như Bồng lai. Hắn còn là một tay hội họa khác thường: Chỉ một vẩy bút là chim hoa đã hiện trên mảnh lụa, thần tình biến hóa như cảnh hóa công. Còn cái tài tính toán thì không lời nào tả hết. Hắn sai khiến gạch đá như ông tướng cầm quân, có thể xây những lâu đài cao cả, nóc vờn mây mà không hề tính sai một viên gạch nhỏ. Khanh cho thế là ngạc nhiên sao? Cửu trùng đài tới nay không ai dựng nổi, rồi đây Vũ sẽ xây nhanh chóng như đài nhất dạ, huy hoàng tráng lệ như đài Cô Tô. Trẫm sẽ cùng khanh vui sướng mặc cả sự đời. Khanh tính sao?
Kim Phượng: Thực là phúc lớn cho chị em thần thiếp, trời mới xui cho thánh thượng gặp người tài. Xin chúc thánh hoàng vạn tuế, để chị em thần thiếp được hưởng ơn trời.
Lê Tương Dực: Ái khanh buổi nay tươi đẹp bội phần. Bay đâu, tấu nhã nhạc lên. Trẫm muốn theo Minh Hoàng đưa hồn vào cõi mộng… Ước gì trẫm cùng khanh sống mãi tuổi thanh xuân…
Đan Thiềm vào, quỳ xuống.
Đan Thiềm: Tâu Hoàng thượng!…
Lê Tương Dực: Có việc chi, mi vào hoãn cuộc vui? Đây là lần thứ mấy?
Đan Thiềm: Tâu Hoàng thượng, thần thiếp có bao giờ dám vượt phận hèn? Nguyên quan thượng thư công bộ xin vào bệ kiến tâu việc Vũ Như Tô.
Lê Tương Dực: Ồ! Đã giải nó về kinh rồi à? Cho quan công bộ vào.
Đan Thiềm ra. Lê An vào, quỳ xuống.
Lê An: Vạn tuế!
Lê Tương Dực: Cho phép ngươi đứng dậy.
Lê An: Tâu Hoàng thượng, Vũ Như Tô đã giải về kinh.
Lê Tương Dực: Mau dẫn nó vào đây. Trẫm đang mong đợi.
Lê An: Nhưng muôn tâu Hoàng thượng… y… là một kẻ quê mùa… Y còn là một tên vô lễ, khinh đại thần, khinh triều đình.
Lê Tương Dực: Là một tên thợ quèn, nó dám hỗn láo như vậy à?
Lê An: Tâu Hoàng thượng y còn khinh cả…
Lê Tương Dực: Cả ai? Khinh cả trẫm? Quân vô lễ! Nó không sợ chết hay sao?
Lê An: Chính y không sợ chết nên mới dám buông những lời bất kính, thần không dám nói ra đây.
Lê Tương Dực: Đem nó ra chính pháp.
Kim Phượng: Tâu Hoàng thượng nhưng còn Cửu trùng đài?
Lê An: Cửu trùng đài! Tâu Hoàng thượng, y khai trước mặt hạ thần là đành chết chứ không chịu làm.
Lê Tương Dực và Kim Phượng: Không chịu làm?
Lê An: Thần đã dỗ dành, dọa nạt nhưng y vẫn chấp nê, y còn nói… nếu là đời vua Hồng Đức, y không ngại gì trổ hết tài năng xây một tòa cung điện nguy nga; còn Hoàng thượng, là… hôn quân, bạo chúa… Vì thế nên y nhất định không giúp Hoàng thượng xây đài.
Lê Tương Dực: Điệu nó ra chính pháp. Gầm trời không thiếu gì người tài hơn nó… Hãy đi bắt chín họ nó về, bất kỳ già trẻ lớn bé đem ra chợ chém ngang lưng bêu đầu ngoài chợ. Còn Vũ Như Tô thì giam nó lại, ngày đêm khảo đả, cho nó chịu muôn đường thống khổ, rồi đem làm tội lăng trì.
Kim Phượng: Nhưng còn Cửu trùng đài?
Lê Tương Dực: Cửu trùng đài! (dịu giọng) Ngươi ra dẫn thằng Tô vào đây.
Nội giám vào, quỳ tâu: Rước Hoàng thượng ra lâm triều. Có sứ thần Trung Quốc.
Lê Tương Dực: Phiền nhiễu vô cùng. Muốn yên không được. (quay bảo Kim Phượng) Cho khanh lui gót. (gọi to) Đan Thiềm.
Lớp V – VII
Đan Thiềm, Vũ Như Tô, lính áp giải.
Đan Thiềm: Muốn xây Cửu trùng đài mà coi thợ giỏi như rơm rác, hoa thơm nào còn đâm chồi nẩy lộc trên đất này? Kể cũng thương hại cho Như Tô, có tài nên mua vạ. Kìa hắn đến kia chăng?
Bọn lính áp giải Vũ Như Tô (đeo gông, chân tay xiềng xích) vào.
Một người lính: Thưa bà, đây là Vũ Như Tô.
Đan Thiềm: Được. Cho lui.
Đan Thiềm: Trời xui khiến tôi gặp ông ở chốn này. Thực là duyên kỳ ngộ.
Vũ Như Tô: Tôi là một kẻ quê mùa, không biết những lời mỉa mai bóng gió.
Đan Thiềm: Đây là thực tình. Ông đừng nghi kỵ. Chính tôi đang muốn gặp ông để nói chuyện.
Vũ Như Tô: Hỏi chuyện tôi! Để làm gì? Các người không thể nào hiểu được chuyện tôi, các người nông nổi…
Đan Thiềm: Ông mới gặp tôi, lấy cớ gì mà bảo tôi nông nổi?
Vũ Như Tô: Người ăn chơi thì đều nông nổi… Cung nữ đều là tuồng ăn chơi. Huống chi trông quầng mắt thâm kia, tôi đoán chắc là người trong túy hương mộng cảnh.
Đan Thiềm: Ông nhầm lắm. Đôi mắt thâm quầng này là do những lúc thức khi người ngủ, khóc khi người cười, thương khi người ghét… Chính là một người đồng bệnh, nên chưa biết ông, tôi đã ái ngại cho ông. Tài làm lụy ông, cũng như nhan sắc phụ người.
Vũ Như Tô: Thực mang tội với bà. Xin cho nghe chuyện.
Đan Thiềm: Ông tạm ngồi xuống cái đôn kia cũng được. Ông có mỏi không? Rõ khổ. Tài bao nhiêu lụy bấy nhiêu! Gông xích, trông ông tiều tụy quá, tôi lại càng thương số phận tôi. Tôi bị tuyển vào cung từ năm 17 tuổi. Hồi ấy tôi đã có người dạm hỏi. Tôi bị giam trong cung ngày ngày bạn với cảnh già. Rồi từ đấy đến nay, ngót 20 năm tôi chỉ đóng vai thị nữ hầu hạ từ vua cho đến các phi tần, nhiều kẻ kém cả tài lẫn sắc.
Vũ Như Tô: Tôi không ngờ lại được biết một đời cung oán nhãn tiền… Cũng là thân không đáng kể. Chế độ thì nghiệt ngã vô lý: nhà không cho làm cao, áo không cho mặc đẹp. Ai xây một kiểu nhà mới khả quan, thì lập tức kết vào tội lộng hành đem chém. Thành thử không ai dám vượt ra khuôn sáo nghìn xưa, nghề kiến trúc đọng lại như một vũng ao tù. Người có tài không được thi thố đành phải tiến về mặt tiểu xảo… Vô phúc mà triều đình biết, thế là gia đình tan nát. Họ bị đóng cũi giải kinh, để làm những công việc nhà vua, thân giam trong nội như một tên trọng phạm, mãi đến khi mắt mờ, tay chậm, họ mới được thải hồi nguyên quán. Triều đình còn không ban cho họ một chút bổng nhờ để mưu sống buổi tàn niên… Thảo nào mà nước ta không có lấy một lâu đài nào ra hồn, khả dĩ sánh với những lâu đài Trung Quốc. Ngay cả Chiêm Thành cũng hơn ta nhiều lắm…
Đan Thiềm: Chính vì thế mà ông càng đáng trọng… Vậy thì các ông luyện nghề làm gì, luyện mà không đem ra thi thố?
Vũ Như Tô: Đó là nỗi khổ tâm của chúng tôi. Biết đa mang là khổ nhục mà không sao bỏ được. Như bóng theo hình. Chúng tôi vẫn chờ dịp… Ngày ngày, tôi thấy các bạn thân bị bắt giải kinh, người nhà khóc như đưa ma. Còn tôi, mong manh tin quan đến bắt, tôi đem mẹ già, vợ và hai con nhỏ đi trốn. Được một năm có kẻ tố giác… Mẹ tôi chạy ra bị lính đẩy ngã, chết ngay bên chân tôi… Rồi tôi bị giải lên tỉnh, từ tỉnh lên kinh, ăn uống kham khổ, roi vọt như mưa trên mình… Cũng vì thế mà tôi thề là đành chết chứ không chịu làm gì.
Đan Thiềm: Cảnh ngộ của ông thì đáng thương thực. Nhưng ông nghĩ thế thì không được… Vì đức Hồng Thuận sẽ bắt ông chịu cực hình và còn đem chu di chín họ nhà ông… Không được. Vì tài phải đem dùng… Miễn là ông không bỏ phí tài trời. Ông nên lợi dụng cơ hội đem tài ra thi thố… Xây Cửu trùng đài cho một tên bạo chúa, một tên thoán nghịch, cho một lũ gái dâm ô? Tôi không thể đem tài ra làm một việc ô uế, muôn năm làm bia miệng cho người đời được.
Đan Thiềm: Ông biết một mà không biết hai. Ông có tài, tài ấy phải đem cống hiến cho non sông, không nên để mục nát với cỏ cây… Chấp kinh, phải tòng quyền. Đây là lúc ông nên mượn tay vua Hồng Thuận mà thực hành cái mộng lớn của ông… Ông cứ xây lấy một tòa đài cao cả. Vua Hồng Thuận và lũ cung nữ kia rồi mất đi nhưng sự nghiệp của ông còn lại về muôn đời. Dân ta nghìn thu được hãnh diện, không phải thẹn với những cung điện đẹp nước ngoài, thế là đủ. Hậu thế sẽ xét công cho ông, và nhớ ơn ông mãi mãi. Ông hãy nghe tôi làm cho đất Thăng Long này thành nơi kinh kỳ lộng lẫy nhất trần gian.
Vũ Như Tô: Đa tạ. Bà đã khai cho cái óc u mê này. Thiếu chút nữa, tôi nhỡ cả. Những lời vàng ngọc tôi xin lĩnh giáo. Trời quá yêu nên tôi mới được gặp bà.
Lớp VIII – IX
Lê Tương Dực, Đan Thiềm, Vũ Như Tô.
Lê Tương Dực: Đan Thiềm, đây có phải là Vũ Như Tô không?
Đan Thiềm: Tâu Hoàng thượng phải.
Lê Tương Dực: Được, cho mi ra. Mi không biết gì mà đứng đấy nghe chuyện.
Đan Thiềm cúi đầu đi ra.
Lê Tương Dực: Vũ Như Tô, mi không sợ chết sao?
Vũ Như Tô: Tâu Hoàng thượng, tiện nhân không sợ chết.
Lê Tương Dực: Người ta ai không tham sinh uý tử… Sao trẫm triệu vào kinh, mi lại trốn?
Vũ Như Tô: Tâu Hoàng thượng, tiện nhân trốn đi để tránh cho triều đình một tội ác… Lời thẳng thì hay trái tai. Xin Hoàng thượng cho phép tiện nhân được nói. Tiện nhân có bị cực hình cũng không oán hận… Tiện nhân không trộm cướp, không tham nhũng, không giết người, tiện nhân chỉ biết phụng dưỡng mẹ già, nuôi vợ, nuôi con. Đang yên ổn, bỗng dưng tiện nhân bị bắt, bị đóng gông tra xiềng rồi bị giải đi… Hỏi tiện nhân có tội gì?
Lê Tương Dực: Vua cần đến thì thần dân phải xả thân làm việc kỳ đến chết thì thôi… Mi là sĩ đấy ư: Mi dám tự phụ là sĩ thảo nào mi không sợ chết.
Vũ Như Tô: Sĩ mà không có chân tài thì tiện nhân không bàn. Anh em tiện nhân còn có những nguyện vọng sâu xa hơn đối với nước… Một ông quan trị dân, với một người thợ giỏi, xây những lâu đài tráng quan, điểm xuyết cho đất nước, tiện nhân chưa biết người nào mới đáng gọi là sĩ… Trước khi chết tiện nhân cũng cố hết sức biện bạch mong Hoàng thượng đừng coi rẻ anh em tiện nhân, ngõ hầu con em theo gót sau này được mở mày mở mặt… Được biệt đãi, có địa vị thì những kẻ tài hoa mới xuất hiện, tranh nhau tô điểm nước non.
Lê Tương Dực: Đài phải có trăm nóc, cao mười trượng, dài năm trăm trượng, mi có đủ tài xây được không?
Vũ Như Tô: Tiện nhân không thấy cái khó ở đâu cả. Tiện nhân tự xét, thực thừa sức xây Cửu trùng đài… Điều tiện nhân xin lúc nãy, Hoàng thượng hãy chuẩn y cho đã… Được thế thì tiện nhân mới chịu làm, mà xin Hoàng thượng biết cho, đài Cửu trùng, phi Vũ Như Tô này, không ai làm nổi.
Lê Tương Dực lấy bản đồ và sổ tay từ túi áo Vũ Như Tô, xem say sưa, khen ngợi thiết kế, rồi định chiếm đoạt.
Vũ Như Tô: Xây đài Cửu trùng không dễ thế đâu… Bản đồ kia chỉ là phần xác, nhưng phần hồn thì chỉ ở lòng tiện nhân, mà phần hồn mới là phần chính… Chỉ xin Hoàng thượng hai điều: thứ nhất, đài phải xây theo đúng kiểu bản đồ này, không thay đổi một ly nào. Thứ hai: Hoàng thượng và triều đình phải trọng đãi công ngang sĩ… Hai điều đó không được, tiện nhân đành phí thân này.
Lê Tương Dực: Được, hai điều mi xin, trẫm cho cả. Trẫm chịu mi vậy. Nhưng mi phải đem hết sức ra xây Cửu trùng đài cho trẫm… Bao giờ xong?
Vũ Như Tô: Độ năm năm… Hoàng thượng tuyển cho năm vạn thợ và phải giao cho tiện nhân toàn quyền làm việc, kẻ nào trái lệnh chém bêu đầu. Có thế thì đài mới xong được… Nhưng gông và xiềng xích này Hoàng thượng còn bắt tiện nhân đeo đến bao giờ?
Lê Tương Dực: Tháo cho mi, nhưng mi đừng phụ lòng trẫm.
Vũ Như Tô: Hoàng thượng coi tiện nhân là người thế nào? Đại trượng phu một lời đã hứa, dẫu nhảy vào đống lửa cũng không từ.
Lê Tương Dực: Mi nên thành tâm giúp trẫm. Được, mi theo trẫm vào đây.
Màn hạ.
Hồi thứ hai
Một cung điện mà vua dành riêng cho Vũ Như Tô ở.
Trong cung điện riêng mà vua Lê Tương Dực dành cho Vũ Như Tô, công việc xây dựng Cửu trùng đài đã bắt đầu rầm rộ. Vũ Như Tô sống giữa những thợ tài danh xưa nay tụ hội, ngày đêm say mê với bản vẽ và công trường. Thế nhưng, xung quanh ông, tiếng oán thán từ dân chúng ngày càng lớn, triều thần chia tranh cãi kịch liệt, quan Đông các Nguyễn Vũ dùng thế lực che chở, trong khi Đan Thiềm vẫn một lòng ủng hộ. Giữa niềm hứng khởi của nghệ sĩ và nỗi lo loạn lạc của đất nước, bi kịch dần hiện rõ. Vũ Như Tô vẫn tin rằng sự nghiệp vĩ đại sẽ trường tồn cùng non sông, dù phải đánh đổi bằng máu xương của muôn dân.
Lớp I
Vũ Như Tô, Thị Nhiên (họ cùng trở đại tang).
Thị Nhiên: Thầy nó làm gì mà ngẩn ra thế?
Vũ Như Tô (buồn rầu): Tôi vừa xin được Hoàng thượng thả 500 thợ già về. Khốn nạn có người ở đây đã 30 năm. Khi tuyển vào kinh, họ còn trai tráng mà bây giờ… người thì còng lưng, người thì bạc đầu, người thì móm mém. Có người chưa có vợ con gì cả, có tội tình người ta không. Tôi đã xin cấp cho mỗi người tiền 3 quan và một mẫu công điền. Hoàng thượng đã ưng chuẩn, thế mà triều đình còn cho là lạm, bực quá là bực. Họ vừa về xong, tôi cũng vừa tiễn họ. Càng thương họ lại càng thương mình…
Thị Nhiên: Chuyện! Ai bảo thầy nó mua lấy cái vạ vào thân.
Vũ Như Tô: Mẹ nó lại sắp đấy…
Thị Nhiên: Thế độ bao giờ thì xây xong cái đài này?
Vũ Như Tô: Năm năm, mười năm, mười lăm năm, hai mươi năm, ba mươi năm cũng có.
Thị Nhiên: Trời đất ơi! Lâu thế thì làm thế nào được. Tôi tưởng một tháng, cùng lắm là ba bốn tháng. Cứ làm vừa vừa có được không? To hơn đình làng ta cũng đã đẹp chán.
Vũ Như Tô: Có mà bằng trăm đình làng ta. Ai cũng như mẹ nó thì còn làm chán cái đẹp đấy. Đây là ta làm cái đài cho cả nước. Nước Tàu cũng không bằng kia.
Thị Nhiên: Thầy nó, tôi còn lạ gì? Động làm cái gì là muốn làm to hơn người. Chỉ khổ vào mình chứ gì? Đấy, thầy nó vừa nói thương những người làm hàng 30 năm ở đây. Thử hỏi năm nay thầy nó 40, liệu thầy nó có sống được 30 năm nữa không? Mà có sống được đến ngày ấy nữa, thì bấy giờ ai xin cấp tiền ai xin cấp ruộng cho thầy nó?
Vũ Như Tô (nói đùa): Thế mẹ nó muốn thế nào nào?
Thị Nhiên: Muốn cũng chả được, ai gàn được thầy nó. Tôi tưởng một tháng hai tháng tôi còn ở lại được, chứ đến chừng này, nghe thầy nó nói thì tôi không thể nấn ná được nữa. Tôi nóng ruột trẻ mỏ ở nhà. Thầy nó cứ cho tôi về vậy.
Vũ Như Tô: Mẹ nó cứ khăng khăng đòi về à?
Thị Nhiên: Không về thì để con nó chết đói ở nhà ư? Con tôi thì còn quý bằng vạn cái đài của thầy nó. Mà tôi ở đây thì được tích sự gì?
Vũ Như Tô: Thì nào tôi có giữ mẹ nó. Cầm lấy ít tiền về mà tiêu.
Thị Nhiên: Tiền, rồi lại lôi thôi ra. Thôi cứ để vậy tôi về. Từ trước tới nay chả có tiền cũng được nữa là. Tôi cứ trông thấy lũ con, thấy con lợn, đàn gà, là đủ vui rồi, chả cần gì cả. Quạt thóc, băm bèo, cũng đủ hú hí mẹ con. Ai nói được thầy nó, cứ nghĩ vơ nghĩ vẩn cái ma mãnh đâu đâu ấy. Nay đài, mai điện, kiểu này, kiểu nọ, chỉ tổ cho người ta sai, chứ được béo bở gì.
Vũ Như Tô: Mẹ nó đến là lắm điều.
Thị Nhiên: Thầy nó mắng thì tôi xin chịu. Nhưng tôi khổ lắm kia. Xa con, xa nhà ngày nào là cứ chết đi được ngày ấy. Lại thêm ở đây mình thì quê mùa, chung quanh toàn là những quan to, quan lớn, bà nọ bà kia, người ta khinh như mẻ cả đấy, nhục nhã lắm rồi, mà ở cái nhà này thì tôi không ở được đâu. Cột rồng, cột phượng, sơn son thiếp vàng, nó cao cao, nó to to, tôi thấy trỗng trễnh lắm, chán chết đi được. Ở nhà, nhà tranh vách đất sao mà ấm thế, ngủ ngon quá. Thế mà còn định làm to gấp trăm cái đình nữa thì để ai ở.
Vũ Như Tô: Rồi quen đi chứ.
Thị Nhiên: Quen với chả quen, thế dễ thầy nó xây, rồi thầy nó được ở hay sao mà quen. Nhà tranh vách đất, nhưng mà tôi được ở, ông ạ.
Vũ Như Tô: Ta làm cái đài cho cả nước.
Thị Nhiên: Vậy như thế thì lâu lắm nhỉ, tôi chờ thế nào được… Thế tôi về ngay hôm nay nhé.
Vũ Như Tô: Mẹ nó đến là vất vả… Ừ mẹ nó cứ yên trí mà về, để tôi được rảnh tâm làm việc (tiễn vợ ra).
Lớp II – III
Vũ Như Tô, Hai Quát, Phó Bảo, Phó Toét, Phó Độ, Phó Cõi; sau thêm Nguyễn Vũ, Trịnh Duy Sản.
Hai Quát: Anh em ơi!… À bác Cả đây rồi.
Vũ Như Tô: Kìa các chú, nghe nói chú phó Toét vừa mới đúc một quả chuông to lắm phải không? Mắt càng ngày càng sâu mà giỏi thì càng ngày càng giỏi. Tôi cần nhờ đến chú nhiều lắm đấy. Trước hết bốn cái cột đồng độ hai người ôm, cao chừng hai trượng. Này chú Độ, cái lối chạm của chú thì thật là cổ kim bậc nhất. Bao nhiêu cửa cột, đầu bẫy, cửa võng, chấn song, chạm gỗ, chạm đá, tôi xin phó mặc chú hết. Thế còn chú Năm Ngọ đâu, không lên thì ai sơn cho chú ấy?
Hai Quát: Có ra, chốc nữa sẽ vào.
Phó Cõi (giơ nậm rượu): Đây.
Vũ Như Tô: Vẫn cứ ngang, coi đời bằng vung chứ? Đường soi đường mộng vẫn vô địch chứ?
Phó Cõi: Vẫn vô địch.
Vũ Như Tô (quay lại Phó Bảo): Còn chú công việc nặng lắm đấy. Đào móng sao cho sâu, xây tường sao cho thẳng; chú phải biết, móng thì phải đến âm ty, tường thì cao tới mây xanh. Việc này chú và tôi ta cùng làm.
Hai Quát: Đến thiên đình chú ấy cũng chẳng coi mùi gì.
Phó Bảo: Các bác cứ dạy quá lời. Mọi sự còn nhờ các bác chỉ bảo cho đấy chứ… Vẫn đi vật đấy chứ? Đến đâu là giữ giải nhất đến đấy. Người ta đã phải kêu là trạng vật kia mà.
Vũ Như Tô: Thôi chú Hai nhận đi. Phải đấy, anh em làm là làm chung, mỗi người một việc, chia tay nhau mà làm… Hôm nay ta phải đánh một bữa chén thực say đã. Thế nhưng mỗi chú đem được bao nhiêu thợ?
Phó Toét: Tôi hai trăm.
Phó Cõi: Tôi ba trăm.
Phó Bảo: Tôi năm trăm.
Vũ Như Tô: Chưa được, chưa thấm vào đâu. Mỗi chú phải có gấp mười nữa. Tôi tính cả thợ lẫn phu ít ra là năm vạn mới xây nổi Cửu trùng đài… Nói thực ra, sở dĩ tôi có nhiều phu vì tôi đã xin với vua được đem dùng tất cả tù binh Chiêm Thành… Nhưng tôi cũng vẫn chưa cho vào đâu cả, phải có năm vạn mới đủ.
Cả bọn (hăng hái): Thì năm vạn.
Vũ Như Tô: À quên chưa báo cho các chú, chiếu Vua đã ban ra rồi đấy… Mới xin được có thế. Còn xin nữa, nhiều nữa. Tôi còn định xây riêng một nơi rất đẹp, rất vĩ đại, gọi là Bách công sảnh.
Cả bọn: Hay, hay. Bác Cả khá lắm… Đáng mặt anh cả. Bọn sinh đồ có Quốc tử giám thì anh em thợ mình cũng có Bách công sảnh.
Vũ Như Tô: Có có, tôi sẽ giao cho mỗi chú một quyển sổ, cứ theo đó mà làm. Bức họa đồ Cửu trùng đài tôi đã phác xong rồi… Trong này (kéo anh em vào trong buồng).
Tiếng Nguyễn Vũ: Quận công gàn quá.
Tiếng Trịnh Duy Sản: Việc này là việc trọng. Cụ lớn nghĩ lại cho thì dân chúng được nhờ… Xây Cửu trùng đài thì là một cái họa cho dân chúng.
Cả bọn thợ: Sao lại thế? Lão nào thế?
Vũ Như Tô: Các chú hãy vào cả trong nhà. Họ tới đây rồi. Chốc nữa sẽ nói chuyện (bọn thợ tức tối vào).
Nguyễn Vũ (đáp Trịnh Duy Sản): Tôi chả thấy cái họa đâu cả.
Trịnh Duy Sản: Xin cụ lớn xét lại cho. Xây Cửu trùng đài thì loạn mất.
Vũ Như Tô: Gửi Quận công vì sao?
Trịnh Duy Sản: Câm mồm tên kia. Mi là một tên thợ quèn, một đứa bạch đinh, bước ngay không được nói leo vào chuyện các quan đại thần… Im ngay! Đời thuở bao giờ nơi tôn nghiêm, thềm son gác tía mà lại để làm nơi tụ tập cho một lũ cùng đinh vô lại kia chứ?
Vũ Như Tô (bực tức): Quận công không được…
Trịnh Duy Sản (tuốt kiếm): À, thằng này giỏi. Những quân tiểu nhân đắc chí không trị không xong… Giết mi thì Cửu trùng đài cũng hết.
Nguyễn Vũ (chạy vào giữa): Quận công đừng quá nóng. Y đang được Hoàng thượng tin dùng… Thôi bác hãy tạm vào trong kia (Vũ Như Tô lườm Trịnh Duy Sản đi vào).
Trịnh Duy Sản: Hừ! Tôn một tên thợ lên đến bậc thầy thì còn gì là thể thống nữa… Xây Cửu trùng đài thì thế nào cũng loạn… Từ ngày Hoàng thượng lên ngôi, không nghĩ gì đến quốc chính, chỉ ăn tiêu xa xỉ, ngân khố hao mòn. Nay lại vẽ ra việc xây Cửu trùng đài, tiền tiêu tính ra tốn hơn là đánh Chiêm Thành… Dân thì đói kém quá thể, có nơi cả làng phải đi ăn mày, đường cái đầy xác chết. Tình cảnh như thế mà lại tăng sưu thuế, họ đóng góp làm sao? Đấy là chưa kể những sự nhũng lạm… Triều đình đòi một, thì chúng đòi mười.
Nguyễn Vũ: Ai bảo Quận công thế? Có làm thì có tiền, triều đình trả công, chả hơn ngồi nhà chết đói à?
Trịnh Duy Sản: Khốn nhưng có trả công đâu? Cụ lớn là bực cao vọng, chỉ có Cụ lớn can nổi Hoàng thượng. Vì thế triều thần làm sớ dâng ngự lãm, và ủy tôi đến đưa trình Cụ lớn xem trước… Cụ lớn giúp thì thế nào cũng xong (trao lá sớ).
Nguyễn Vũ (tiếp lá sớ, sau đọc rồi xé nát): Can với gián, hơi đâu nhận lấy việc khó vào thân… Văn với chương… Có phải vạ.
Lớp IV – V
Nguyễn Vũ, Vũ Như Tô, Thái tử Chiêm Thành; sau thêm Đan Thiềm.
Vũ Như Tô: Gửi Cụ lớn, thế các quan xin bãi Cửu trùng đài?
Nguyễn Vũ: Bãi thế nào được, công việc vẫn cứ làm như thường.
Thái tử Chiêm Thành vào.
Nguyễn Vũ: Kính chào Thái tử. Thái tử tìm tôi phải không? Thái tử nói tiếng chúng tôi sõi lắm nhỉ.
Thái tử: Gửi Cụ lớn, ba năm ở ngoài này còn gì, chúng tôi nhớ nước quá chừng… Phen này thì thế nào cũng được về.
Vũ Như Tô: Điện hạ liệu mỗi lần có đủ 300 thuyền tải đá ra không?
Thái tử: Chắc lắm. Cha mẹ tôi khi đã biết tin rằng hễ có đá ra thì tôi được về, thì không nói 300 thuyền, 400 cũng có.
Vũ Như Tô (lẩm bẩm): Một năm cứ cho là mươi chuyến may ra thì đủ.
Thái tử: Thế độ mấy năm?
Vũ Như Tô: Độ hai năm.
Thái tử (buồn bã): Hai năm. Thế thì còn lâu quá nhỉ!
Nguyễn Vũ: Thái tử cứ yên tâm. Để tôi xem nếu thuyền đá ra đều thì không phải đợi đến hai năm, tôi sẽ tâu để Thái tử về trước… Thế nào Thái tử cũng được về. Tôi cam đoan với Thái tử thế.
Thái tử: Kính lạy Cụ lớn. Bây giờ tôi xin cáo lui.
Vũ Như Tô: Khốn nạn, thân làm Thái tử, khổ hơn tù tội. Nghĩ cũng thương. À, gửi Cụ lớn, còn thợ chạm, cũng phải lấy sáu, bẩy trăm người, nhất là thợ đẽo chạm đá. Phải bảo Thái tử thêm khoản ấy mới được.
Đan Thiềm vào.
Đan Thiềm: Kính chào Cụ lớn… May quá, tôi lại gặp Cụ lớn ở đây. Hoàng thượng đang mong Cụ lớn… Hoàng thượng ngồi buồn muốn mời Cụ lớn đánh mấy hội. Bẩm có cả thứ phi hầu bàn.
Nguyễn Vũ: Thế thì tôi phải vào ngay.
Nguyễn Vũ ra.
Vũ Như Tô (lắc đầu): Vua với tôi càng nghĩ càng chán.
Đan Thiềm: Không, ta không nên chán… Xem ý anh em thợ ai cũng yêu mến ông. Hàng nghìn hàng vạn thợ đều kỳ vọng vào ông, ai nấy đều một lòng đấu sức để giúp cho Cửu trùng đài chóng xây xong, vậy thì đài lớn tất phải hoàn thành. Sao ông lại chán?
Vũ Như Tô: Nói chán thì quá. Nhưng thưa bà tôi cũng ngại… Nguyên Quận công vừa vào đây nói với quan Đông các tâu Hoàng thượng bãi việc xây đài… Quận công nói rằng nước ta thì nghèo, dân thì đói, quan lại nhũng, công khố thì cạn, nếu xây đài thì loạn to.
Đan Thiềm: Thế quan Đông các bảo sao?
Vũ Như Tô: Quan Đông các bảo sẽ không can Hoàng thượng và bảo chúng tôi cứ xây đài, có việc gì đã có quan Đông các.
Đan Thiềm: Thế thì được rồi. Đã có quan Đông các thì không sợ gì nữa… Đức vua tin yêu nhất… Chỉ có mấy năm mà đã lên tới lại bộ thị lang, nay lại thăng Hình bộ thượng thư, tước Đông các đại học sĩ, ra hầu tòa Kinh Diên, nói gì đức vua cũng nghe.
Vũ Như Tô: Nhưng tôi nghe đâu quan lại chẳng ai ưa, lại hay ăn của đút, dân gian ta thán nhiều.
Đan Thiềm: Nhưng được việc cho ta, thì ta cứ nhờ vả. Có hề gì?… Vậy thì cứ thế ông nhé. Tôi có ít tế nhuyễn, xin cúng vào để xây Cửu trùng đài (trao túi tiền).
Vũ Như Tô: Đa tạ bà. Thế này thì anh em chúng tôi càng thêm phấn khởi, tiền đầu đã lợi, chắc là hậu vận phải hay.
Đan Thiềm: Thôi xin tạm biệt. Hễ các ông vui vẻ làm việc, đồng tâm là tôi cũng vui lây. Cố đi nhé.
Vũ Như Tô: Chúng tôi thấy mọi sự thuận tiện, và lại được bà thuận lòng giúp thì thế nào cũng xong, chúng tôi nhất định làm xong để tạ lại cái ơn tri ngộ của bà.
Màn hạ thực nhanh.
Hồi thứ ba
Nửa năm sau.
Phía trước sân khấu là một cái bệ cao 4, 5 bậc. Bên trái, xoài dọc từ bực trên cùng xuống bực dưới là đuôi một con rồng.
Giữa sân khấu là một khoảng rộng, phẳng. Ngổn ngang vài khối đá to.
Trong cùng là cảnh hồ Tây, xanh biếc, với cây cối um tùm. Có tiếng thợ ồn ào chung quanh. Thỉnh thoảng văng vẳng tiếng đàn sáo. Trời gần chiều… Mở màn lên thì phó Độ đang cúi xem đuôi con rồng.
Nửa năm sau, công trình Cửu trùng đài đã bắt đầu thành hình giữa hồ Tây xanh biếc. Những khối đá khổng lồ, cột đồng cao vút, rồng chạm tinh xảo dần hiện rõ giữa tiếng búa đục ồn ào và tiếng đàn sáo xa hoa từ chiến thuyền vua. Thế nhưng, tai nạn liên miên, thợ chết hàng loạt, dân oán thán dâng cao, giặc giã nổi lên khắp nơi. Giữa niềm say mê nghệ thuật của Vũ Như Tô và Đan Thiềm, tiếng kêu than của thợ thuyền và lời cảnh tỉnh của Trịnh Duy Sản vang vọng. Bạo chúa Lê Tương Dực vẫn mải mê trụy lạc, Nguyễn Vũ che chở, Kim Phượng ghen tị. Bi kịch nghệ sĩ tài hoa mượn tay bạo quân xây kỳ công cho non sông dần lộ rõ bộ mặt đẫm máu.
Lớp I – III
Phó Độ, Phó Bảo, Phó Cõi, Hai Quát; sau thêm người lính đao phủ dẫn thợ bị giải, rồi Vũ Như Tô.
Phó Độ (cúi xem đuôi rồng): Tôi xem xem thợ chúng nó chạm con rồng này có ra gì không? Chúng nó làm khá lắm bác ạ, càng ngày càng tinh, càng khéo. Trông cậy được. Bác xem khúc đuôi có màu mỡ không? Vẩy thì tuyệt, đều tăm tắp; này cái chân này mới gân guốc chứ… Thực tưởng như rồng sống, cựa mình văng đi.
Phó Bảo: Mặc thây con rồng của bác. Đắc ý lại sắp mần tuồng ngay đấy… Cứ thế này thì bao giờ xong: Công việc cứ nở ra. Nửa năm rồi mà chẳng đâu vào đâu cả… Thợ của tôi chết hàng trăm rồi kia kìa. Khốn nạn em trai tôi ngã từ trên cao xuống, một miếng đá đổ theo đè nó nát tan ra như cám… Các ông cứ nói ngang như bứa ấy.
Phó Cõi (tu chai rượu): Se sẽ chứ nào. Chúng tôi cũng chết đi được vì bác đây… Tức thì để bụng.
Phó Độ: Thôi tôi can hai bác. Anh em với nhau lại cứ khích bác… Thế nào, chỗ đổ hôm kia đã moi được hết người ra chưa?
Phó Bảo: Đá nặng như núi ấy. Còn đến chục người chết bẹp ở đấy. Mùi cứ xông lên… Tội nghiệp cho hai vợ chồng Ba Vè cùng chết một chỗ… Thà đi đánh giặc, chết lại không đến nỗi oan uổng.
Phó Cõi: Chuyện!
Phó Bảo: Sứ Tàu bảo vua tướng lợn là phải… Ngày thì rượu, đêm thì đánh bạc; gian dâm với cả cung nữ của bố… Ê quá, nát ơi là nát.
Phó Độ: Tiếng đàn sáo ấy, hẳn lại là đánh trận giả ở hồ Tây đấy thôi… Một bên thì thứ phi, một bên thì vua, cung nữ mặc áo giáp… Thế rồi hai bên đánh nhau nhưng chắc lại múa may như một lũ phường tuồng…
Phó Bảo: Vừa ngấy, vừa buồn cười… Thợ của tôi đói quá. Mà làm thì vất vả, tiền khi có khi không… Thế ra mình cứ nai lưng làm để vua chúa ăn chơi… Dân lại còn oán mình… Tội nghiệp bác Hai Quát, làm việc quần quật suốt ngày, người cứ rạc như ve, mà lại bị một trận đòn oan… Lũ học trò thì làm bộ, mà dân thì cứ như thiên lôi bảo đâu đánh đấy… Bác Cả xui vua ban mấy đạo chiếu, để lấy lòng mình, để mình về làm cho bác ấy. Thế thôi, khôn vãi máu ra.
Phó Cõi: Bác đừng nói thế, không nên. Bác Cả không thế đâu.
(Có tiếng đổ ầm ầm, tiếng thét, tiếng khóc. Họ tái mặt).
Phó Độ: Chết chửa, đổ dữ hơn hôm nọ nhiều.
Hai Quát (mặt dại, lả vào tay các bạn): Chết nhiều lắm. Tôi cũng suýt chết… Ba ngày hôm nay chết đến ba trăm thợ, toàn là thợ giỏi. Bác Cả cứ muốn làm to quá không được!
Phó Bảo: Thương tâm lắm, tôi không dám đứng xem.
Người lính đao phủ dẫn một người thợ vào.
Người thợ (vùng vẫy): Ông không câm, ông đố đứa nào bịt họng ông được đấy… Ông chỉ có cái tội trốn đi, không chịu xây Cửu trùng đài cho nó… Dân khổ mày có biết đâu, mày chỉ biết đến cái đài của mày… Vì mày mà dân khổ thêm bao nhiêu từng không?
Người lính vụt roi, kéo lê đi.
Phó Cõi: Bác Cả dễ điên.
Vũ Như Tô vào (mệt mỏi, hốc hác).
Vũ Như Tô (lẩm bẩm): Bao nhiêu người chết vì ta! Khốn nạn… Nhưng sao ta đã vội nản… Hồn các chú có khôn thiêng xin chứng giám cho anh, phù hộ cho anh dựng một kỳ công cho nước ta. Các chú chết cũng không phí… Ta có mẹo này, nhất định không đổ nữa… Kìa các chú. Các chú tức anh chăng?
Phó Bảo (van lơn): Bác Cả nới tay cho, bác tha cho chú kia… Đừng đem người ta ra chém. Thực khắc nghiệt quá việc quân.
Vũ Như Tô: Tôi cũng khổ tâm lắm đây… Nhưng không thẳng tay không xong. Xây cái Cửu trùng đài này cũng khó như đánh trận… Phải trừ hết cả những kẻ hèn, thấy khó đã nản… Ta xây một cái đài vĩ đại, làm vinh dự cho non sông… Chỉ tức bọn khách trú… Chúng bảo người An Nam chỉ có thể làm được cái đền, cái miếu nhỏ nhỏ bé bé… Cho nên tôi cứ phải cố, dù có vất vả, dù chết đi nữa cũng phải xây xong cái đài này.
Cả bọn: Xây xong mới nghe. Chúng mày hãy mở mắt ra mà xem các thợ An Nam…
Lớp IV – VIII
Thêm nội giám, Lê Tương Dực, Nguyễn Vũ, Lê An, Kim Phượng, Trịnh Duy Sản.
Nội giám (bưng quả): Hoàng thượng sắp đến đây… Ngài có sai tôi đem đến ban cho ông một lạng vàng, hai mươi thước lụa.
Vũ Như Tô: Bái lĩnh… Tôi thì có công lao gì mà lĩnh thưởng, các chú chịu nhiều phần khó nhọc, mới đáng lĩnh, tôi xin chia cùng các chú.
Phó Cõi: Sao bác lại gàn thế? Ân vua…
Vũ Như Tô: Anh em chúng ta cùng nhau cố kết xây đài, vui cùng nhau chung, nhục cùng chịu… Khổ cho chú Độ, vất vả quên cả mần tuồng.
Lê Tương Dực (hỏi Nguyễn Vũ): Khanh tính thế nào? Lại tăng sưu thuế; thế này là lần thứ hai nhỉ?
Nguyễn Vũ: Tâu Hoàng thượng, chỉ còn cách ấy, mới có đủ tiền xây đài…
Lê Tương Dực (với Vũ Như Tô): Ngươi thực là thiên tài… Độ bao giờ xong?
Vũ Như Tô: Tâu Hoàng thượng, năm năm nữa, may ra thì đài hoàn thành được… Quan tước tiện nhân không màng. Vốn ở quê mùa tiện nhân không quen đời xa mã… Hãy để xây xong Cửu trùng đài đã.
Lê Tương Dực (cười, cầm tay Vũ): Thầy nên làm cho chóng xong đi. Trẫm chỉ mong đương độ thanh xuân được ở cái đài này…
Kim Phượng vào, quỳ.
Kim Phượng: Vạn tuế… Xin Thánh thượng giữ gìn mình ngọc… Thần thiếp thấy thánh thể sút kém đi nhiều… Chỉ phiền Vũ Như Tô không chịu… Hắn hỗn láo, khinh rẻ chị em thần thiếp… Hình như họ Vũ có tình ý chi với Đan Thiềm.
Lê Tương Dực: Trẫm biết cả… Đài mà xây xong hôm trước thì hôm sau hai đứa rụng đầu.
Trịnh Duy Sản vào, quỳ.
Trịnh Duy Sản: Hoàng thượng nên bãi ngay việc xây Cửu trùng đài… Giặc giã nổi lên khắp nơi… Trần Cao đã kéo quân đến Đế đô… Dân gian oán Vũ Như Tô, mấy lũ cung nữ… Chính vì muốn đẹp lòng họ mà Hoàng thượng cho xây Cửu trùng đài… Kiệt Trụ mất nước chỉ vì cái bệnh xây cung điện.
Lê Tương Dực (giận dữ, rút kiếm): Ngươi lui ra… Mi thách trẫm sao?
Trịnh Duy Sản (quỳ vươn cổ): Hạ thần xin chết về tay Hoàng thượng còn hơn là trông thấy ngày nhà Lê mất nghiệp.
Kim Phượng (giữ tay vua): Xin Hoàng thượng nể Quận công là một bậc đại thần…
Lê Tương Dực: Nể lời thứ phi ta hãy để cái đầu mi đấy… Tha tội chết, nhưng cái tội hỗn lão, trẫm quyết không tha.
Trịnh Duy Sản (ra): Thương thay cơ nghiệp nhà Lê.
Lớp IX
Vũ Như Tô, Đan Thiềm.
Vũ Như Tô (ngồi trên phiến đá, tính toán): Hai trăm vạn cây gỗ… hơn hai mươi vạn phiến đá… Năm vạn thợ làm ở đây, mà tính ra mười mấy vạn thợ làm ở ngoài… Ta quyết không chùn một bước… Đài Cửu trùng! Cao vòi vọi, muôn phần tráng lệ!
Đan Thiềm vào.
Đan Thiềm: Ông Cả còn tính toán gì mà chưa về nghỉ?
Vũ Như Tô: Kính chào bà. Hôm nay đài đã thành hình… Những lời khuyên của bà thực là xác đáng… Đài chính ấy tôi sẽ đem hết tài ra tô điểm… Đài ấy tôi sẽ đặt tên là đài Đan Thiềm.
Đan Thiềm: Chết chửa! Sao ông lại điên rồ như thế?… Tôi là một kẻ vô duyên. Đừng lấy tên vô duyên ấy đặt cho đài, đài sẽ cùng chung số kiếp.
Vũ Như Tô: Mang tên bà, đài đẹp thêm lên bội phần… Hãy mời bà lên ngắm đài đã.
(Họ cùng đứng lên chồng đá, nhìn bốn phía).
Đan Thiềm (cảm động, ứa nước mắt): Đẹp! Quả thật đẹp!… Tôi chỉ xin khuyên ông gìn giữ sức khỏe… Thấy ông đảm việc, tôi mừng cũng có, nhưng lo cũng nhiều. Trông ông sút đi nhiều, ông nên thận trọng, kẻo có mệnh hệ nào thì lấy ai xây tiếp Cửu trùng đài?
Vũ Như Tô: Tôi xin lĩnh giáo. Đa tạ bà.
Màn hạ.
Hồi thứ tư
Bốn tháng sau.
Cũng cảnh ấy, một đêm hè. Những phiến đá đã dọn đi. Xa xa là nửa một thứ khải hoàn môn, một bên (về phía con rồng) là bức tường đá ong thấp, trên có tượng một kỵ mã, mũ trụ, áo giáp, đeo cung kiếm.
Bốn tháng sau, đêm hè oi bức tại công trường Cửu trùng đài. Khải hoàn môn đồ sộ đã hiện rõ nửa thân, tượng kỵ mã oai vệ đứng sừng sững dưới trăng. Vũ Như Tô què quặt sau tai nạn suýt chết, vẫn mê mải với kỳ công. Dân đói kém, giặc giã nổi lên khắp nơi, oán hận dồn cả vào đài và người chủ xướng. Thái tử Chiêm Thành âm thầm báo thù dân tộc bằng cách giúp xây đài cho An Nam kiệt quệ. Thợ thuyền phẫn uất, Trịnh Duy Sản khởi loạn, giết Đan Thiềm, sát hại Vũ Như Tô. Phó Cõi say rượu cứu Đan Thiềm, báo tin dữ. Cửu trùng đài sắp thành thì cũng là lúc lửa loạn bùng lên dữ dội, báo hiệu ngày tận diệt của nghệ sĩ tài hoa và bạo chúa ngông cuồng.
Lớp I
Vũ Như Tô (chống gậy, khập khiễng, tay trái cầm đèn lồng), Thị Nhiên (từ khải hoàn môn đi ra).
Thị Nhiên: Đây là cái gì, tôi rờn rợn người làm sao ấy. Cái cổng này cao như núi, nó như nuốt tôi đi không bằng. Mà sao bày lắm tượng thế này… Tất cả mười pho, mỗi hàng năm chạy dài dằng dặc, cưỡi ngựa trông gớm chết… Mà cái bực đá này nữa, sao mà cao, mà lắm bực thế? Ngã một cái thì chết mất thôi… Tôi chóng mặt lắm, thầy nó ạ. Tôi chịu thôi, cho tôi ra khỏi chỗ này (bíu lấy chồng).
Vũ Như Tô (cười): Việc gì mà chóng mặt.
Thị Nhiên: Tôi sợ lắm… Mà sao thầy nó không bước đi được thế kia… Khốn nạn. Có đau lắm không? Việc gì phải giấu tôi mới được chứ?
Vũ Như Tô (gượng đau): Tôi có làm sao đâu. Mẹ nó đến hay lo.
Thị Nhiên: Nghe tin thầy nó ngã từ trên nóc nhà xuống, đá đè lên cả người tôi cứ rụng rời ra… Nhưng thế này cũng thành tật! Què mất thôi!
Vũ Như Tô: Đành chịu chứ làm thế nào?… Được đấy! (gật gù hỏi vợ) Mẹ nó trông có đẹp không?
Thị Nhiên: Thì tôi đã bảo tôi đang sợ hết vía lên đây… Tượng kia cứ như xô lại đánh tôi. Mà cái cổng kia, nói dại, nó đổ xuống thì chết…
Vũ Như Tô: Mẹ nó mới chỉ biết cảnh ban đêm. Chứ buổi chiều lúc mặt trời lặn, buổi sáng lúc mặt trời mọc, chỗ sáng, chỗ tối, bóng người bóng ngựa, lóng la lóng lánh, trông còn rực rỡ, đẹp đẽ bằng trăm, bằng nghìn.
Thị Nhiên: Thầy nó nói đến khéo. À phải, tôi thấy nhiều người khen cái đài này lắm… Bao nhiêu người đi xem đấy, ai về cũng trầm trồ khen đẹp, khen lớn. Họ khen rồi họ chê đấy… Có người chê đài chỉ toàn là cảnh An Nam, xấu lắm. Mấy lị họ chê ở chỗ xây đài phí tiền.
Vũ Như Tô: Họ thì biết gì, cứ ruộng nhiều là tốt.
Thị Nhiên: Chứ gì. Ấy cứ có ruộng, có thóc, có khoai, có đỗ, thế là thích nhất… À thầy nó ạ, lúa chiêm năm nay hỏng cả… Vụ chiêm hỏng, mà lụt luôn mấy năm nay. Đói kém lắm thầy nó ạ… Ở làng ta, mà cả ở quanh vùng, độ này cướp bóc nhiều lắm… Bên làng Cuội, có cả giặc nổi lên. Lý trưởng đến thu thuế, chúng giết cả Lý trưởng.
Vũ Như Tô (mơ hồ): Phiền nhỉ?… Phó Độ mà chạm thì không còn phải nói nữa… Để nhiều khoảng rộng thế này mới đẹp, mới hùng. To lớn tự khắc là oai nghiêm.
Thị Nhiên: Thôi cho tôi về… Thầy nó còn lạ gì tôi ngược xuôi buôn bán, làm ruộng, làm áng, quen với đêm khuya rồi… Thân mình thì tàn tật, việc nhà thì bỏ, con cái cũng chẳng nhìn… Độ năm năm nữa thôi.
Thị Nhiên (ghé tai chồng): À này, tôi thấy người ta nói thầy nó có tình ý với cái người cung nữ Thiềm gì ấy, có phải không?
Vũ Như Tô (tái mặt): Chỉ bậy.
Thị Nhiên: Đàn ông thì ba vợ bảy nàng hầu, tôi có cấm đoán gì thầy nó, nhưng là nơi vua chúa, thì rồi chết cả họ!
Vũ Như Tô (tức giận): Không hiểu làm sao thiên hạ lại đồn như thế được? Bậy hết sức… Năm năm nhất định. Mẹ nó hãy ở lại đây, mai tôi dẫn đi xem chỗ khác đẹp hơn nhiều.
Thị Nhiên: Thôi thế là đủ, đẹp lắm rồi! Năm năm nữa. Gớm, thầy nó đến là hay vẽ chuyện. Cứ làm nho nhỏ cũng được… Thầy nó ở lại nhé. Thế là thành tật đấy. Khổ quá. Mai bảo con là bố sắp về thì chúng nó phải biết là vui… Thôi, tôi đi đường mua mấy cái bánh tẻ, bảo là của bố cho con thế cũng được (cắp nón đi xuống).
Vũ Như Tô: Tôi xuống được. Còn giỏi chán. Mẹ nó vịn vào con rồng này mà xuống cho khỏi rợn. Còn một tay đưa tôi dắt.
Thị Nhiên (thè lưỡi): Lèo ơi! Cứ như núi ấy thôi.
Lớp II – III
Thái tử Chiêm Thành, một tên thợ Chiêm Thành; sau thêm Phó Toét, Phó Cõi, Phó Độ, Hai Quát, Phó Bảo.
Thái tử Chiêm Thành: Gió mạnh quá nhỉ… Đài này kể ra thì đẹp thực! Người An Nam họ cũng tài… Đến khi xong cả thì đẹp biết chừng nào. Trông lớn lao đồ sộ thực.
Tên thợ: Tưởng Thái tử không nên giúp họ xây cái đài này mới phải… Họ lại mượn cớ dọa không cho Thái tử về nước nữa.
Thái tử: Mi ngu lắm. Họ với ta có cái thù truyền kiếp… Vua Chế Bồng Nga xưa dùng võ để báo thù không xong; nay ta muốn dùng kế khác… Ta nên cố giúp cho vua họ xây đài, cho hao người tốn của, cho họ kiệt quệ như ta… Rồi họ chết!
Tên thợ: Thái tử thật là khôn ngoan.
Thái tử: Ta cũng đành lòng, miễn là chúng cứ xây đài. Ta chờ ngày chúng nó chết… Mi theo ta, đi xem chỗ khác. Đêm hè nóng nực ta nhớ nước không sao ngủ được.
Phó Độ (hát): Buồn trông con nhện chăng tơ, nhện ơi nhện hỡi nhện chờ mối ai?
Phó Cõi (tu rượu): Thôi im đi, tưởng hay lắm đấy… Khà!
Phó Độ: Lại cái anh Thái tử Chiêm Thành chứ gì? Từ ngày hắn biết không được về người cứ võ đi.
Hai Quát vào.
Hai Quát: Anh em đã nhất định nổi lên chưa?… Không ai còn muốn làm cái Cửu trùng đài này nữa. Họ ngấy rồi. Họ oán bác Cả nhiều lắm… Bác ấy lại vẽ ra rằng không có thuyền vào Nam chở đá. Xin vua tịch biên các thuyền lớn của dân chài… Bác ấy mỗi ngày một quá lắm.
Phó Độ: Bác ấy có tâm địa gì đâu. Chẳng qua lúc nào cũng chỉ nghĩ đến Cửu trùng đài, ngoài ra không biết đến cái gì nữa.
Hai Quát: Cụ Quận định khởi loạn. Muốn bọn ta hưởng ứng… Chỉ có thế mới thoát chết… Loạn đi.
Phó Độ: Bao nhiêu công phu!
Hai Quát: Đành phí vậy. Còn hơn là chết cả… Các chú không nghe, mặc các chú.
Phó Bảo (mặt dữ tợn): Chính thế! Các bác còn trù trừ gì nữa?… Thợ của tôi vừa giết Thái tử Chiêm Thành xong… Trừ xong một cái hại rồi. Đứa nào còn muốn xây đài đều như thế cả… Đêm nay không khởi sự thì đợi đến bao giờ?… Liều một phen vậy, ở đây rồi cũng chết, làm loạn may ra còn sống.
Lớp IV – V
Thêm người thợ, Trịnh Duy Sản, Ngô Hạch.
Người thợ: Ông phó Bảo có đây không?… Anh em đã quyết bỏ đài theo Quận công… Giết cả Tô, giết lũ cung nữ, lập vua khác lên ngôi… Các ông theo càng hay, không theo anh em cũng chẳng cần.
Trịnh Duy Sản (Ngô Hạch xách đèn): Ta đã quyết hưng binh trừ bạo chúa, trừ quyền thần, trừ đứa xây đài, đứa nào theo ta thì sống, không theo ta thì chết… Đứa nào theo bước lại đây (phó Bảo, Hai Quát và người thợ bước lại). Còn những thằng kia?… Hạch đâu. Chém.
Phó Toét: Chúng con xin theo.
Trịnh Duy Sản: Thì lại đây… Còn thằng kia? (chỉ Phó Cõi say gục).
Hai Quát: Bẩm cụ lớn, đấy là chú phó Cõi, nó đang say.
Trịnh Duy Sản: Thôi kệ nó… Bảo anh em như thế, không sợ gì cả. Xong việc ta cho ăn rồi thả cho về… Còn mày, hãy dẫn 3000 quân Kim Ngô ra cửa Bắc. Hễ có hiệu lửa, thì xông vào… Giết ngay cho ta, không sợ nghe chưa?
Lớp VI
Chỉ còn Phó Cõi.
Phó Cõi (tự đắc): Mình đoán chẻ hoe ra… Tội gì mà theo lão Quận… Phải đi báo tin cho bác Cả, chứ không thì chết… Nhưng bác ấy ở đâu đây nữa… Vợ mới ra, lại chạy đi xó nào tình tự đây chứ gì?
Lê Trung Mại kéo Đan Thiềm vào, một nội giám theo sau.
Lê Trung Mại: Mụ hãy ngửng đầu lên. Đây là Hoàng hậu bắt tôi giết mụ…
Đan Thiềm: Trời ơi, đài đẹp đến bực này. Quả là một thiên công… Trước khi chết, hãy cho tôi ngắm đến chán cái đài này… Tôi cầu trời cho đài chóng hoàn thành, trường thọ với non sông.
Lê Trung Mại (thòng lụa vào cổ Đan Thiềm): Mụ chết là phải. Chính mụ xui nó xây đài… Nào.
Phó Cõi (chạy ra): Ông giết cả lũ chúng bay bây giờ… Tao đến cứu bà Đan Thiềm… Đây tao đánh tháo cho chúng bay coi (đâm viên nội giám).
Viên nội giám: Trời ơi! Nó giết tôi.
Phó Cõi: Chạy đi thì tao tha… Loạn đến nơi rồi…
Lê Trung Mại: Thôi chạy đi, đừng giây vào với nó.
Phó Cõi (đỡ Đan Thiềm): Bà đứng dậy được không?… Nguyên Quận công khởi loạn… Họ nổi lên là để giết bác ấy… Bà đi mau lên, không có không kịp… Bà đi ngay đi.
Đan Thiềm (luống cuống chạy xuống): Ông đi với tôi, tôi không bước nổi.
Màn hạ nhanh.
Hồi thứ năm
Một cung cấm.
Trong cung cấm, đêm loạn lạc. Lê Tương Dực đã bị giết, Nguyễn Vũ tự vẫn, triều đình tan vỡ. Vũ Như Tô và Đan Thiềm đối diện cái chết. Dân chúng và quân phản nghịch đổ hết tội lỗi lên đầu người thợ tài hoa và Cửu trùng đài. Đài lớn sắp thành thì lửa cháy ngút trời. Nghệ sĩ tài danh chết trong căm hờn cùng kỳ công dang dở. Đan Thiềm hy sinh vì tri kỷ. Tất cả chìm trong biển lửa và tiếng reo hò của đám đông cuồng nộ. Bi kịch nghệ thuật và quyền lực kết thúc trong tro tàn.
Lớp I – II
Vũ Như Tô, Đan Thiềm; sau thêm Nguyễn Vũ.
Vũ Như Tô: Có việc gì mà bà chạy hớt hơ, hớt hải? Mặt bà cắt không còn hột máu.
Đan Thiềm (thở hổn hển): Nguy đến nơi rồi… Ông Cả! Ông trốn đi, mau lên không thì không kịp.
Vũ Như Tô: Lạ chưa, nguy làm sao? Đài Cửu trùng chia năm đã được một phần… Sao bà nói lạ? Đài Cửu trùng chưa xong, tôi trốn đi đâu. Làm gì phải trốn?
Đan Thiềm: Ông nghe tôi! Ông trốn đi! Ông phải trốn đi mới được!… Loạn đến nơi rồi. Dân gian đói kém nổi lên tứ tung… Nguyên Quận công Trịnh Duy Sản… giả mượn tiếng đi dẹp giặc rồi quay binh về làm loạn… Ai ai cũng cho ông là thủ phạm… Họ dấy nghĩa cốt giết ông, phá Cửu trùng đài.
Vũ Như Tô: Phá Cửu trùng đài? Không đời nào!… Tôi không trốn đâu. Người quân tử không bao giờ sợ chết… Tôi sống với Cửu trùng đài, chết cũng với Cửu trùng đài. Tôi không thể xa Cửu trùng đài một bước.
Đan Thiềm (thất vọng): Ông Cả ơi!
Nguyễn Vũ (lật đật, xộc xệch): Kìa, thầy Cả… Thầy có biết việc gì không?… Đúng thế đấy. Nguyên Quận công làm phản… Ta lo cho Hoàng thượng lắm…
Đan Thiềm: Họ tiến lại đây chăng?… Ông trốn đi, mau lên, khổ lắm… Có tiếng quân reo…
Lớp III – IV
Thêm Lê Trung Mại, nội giám.
Lê Trung Mại (hoảng hốt): Nguy đến nơi rồi… Trịnh Duy Sản… đem 3000 quân Kim Ngô hộ vệ vào cửa Bắc thần… Hoàng thượng… vừa gặp Duy Sản… tên Hạch đuổi theo, đâm vua ngã ngựa rồi giết chết… Khâm đức Hoàng hậu thương vua cũng nhảy vào lửa chết…
Nguyễn Vũ (khóc, rút dao tự vẫn): Hoàng thượng ơi!… Ăn lộc của vua, xin chết vì nạn của vua…
Vũ Như Tô: Thảm não chưa?
Một tên nội giám: Trịnh Duy Sản giết Thiên tử, lập con Mục Y vương… An Hòa hầu Nguyễn Hoàng Du… kéo quân về đốt phá kinh thành. Thợ xây Cửu trùng đài quá nửa theo về quân phản nghịch… Kẻ phá, người đốt…
Vũ Như Tô: Thợ theo quân phản nghịch? Thế còn Cửu trùng đài?… Vô lý.
Bọn nội giám: Để Cửu trùng đài làm gì?… An Hòa hầu đang cho tìm mấy lũ cung nữ để phanh thây… Chạy đi anh em ơi!
Lớp V – VI
Vũ Như Tô, Đan Thiềm; sau thêm Kim Phượng và cung nữ.
Đan Thiềm: Ông Cả! Ông chạy đi!… Quân giặc đang tìm ông đấy, trốn đi!… Ông đừng mơ mộng nữa. Dân chúng nông nổi, dễ sinh tàn ác… Trốn đi!
Vũ Như Tô: Họ tìm tôi, nhưng có lý gì họ giết tôi… Còn bà?
Đan Thiềm: Tôi ở đây… Nguy biến ta cùng chịu.
Kim Phượng (khóc lóc): Làm thế nào bây giờ? Cửa điện bị chúng phá rồi!… Đây có cửa ra đằng sau không?
Đan Thiềm: Đến đây là đường cùng rồi! Đây là tử địa!
Quân khởi loạn kéo vào.
Lớp VII – IX
Thêm Ngô Hạch và quân khởi loạn.
Quân khởi loạn: Đây rồi! Vũ Như Tô! Lũ cung nữ!
Ngô Hạch: Quân bay, vào bắt lũ cung nữ trước… Ta đã biết! Quân bay vào bắt lấy gian phu dâm phụ.
Kim Phượng (chỉ Đan Thiềm): Chính nó mê hoặc vua… Chính nó dan díu với Vũ Như Tô… Chính nó là thủ phạm.
Đan Thiềm: Lũ yêu quái không được đặt để nên lời… Tôi không sợ chết, nguyện xin được chết. Nhưng tôi không phải là con người bất chính… Bao nhiêu tội tôi xin chịu hết. Nhưng xin tướng quân tha cho ông Cả. Ông ấy là một người tài… Tha cho ông Cả. Tôi xin chịu chết.
Ngô Hạch: Trói cổ con đĩ già lại… Trói thằng Vũ Như Tô lại.
Đan Thiềm (bị kéo ra): Ông Cả! Đài lớn tan tành! Ông Cả ơi! Xin cùng ông vĩnh biệt.
Vũ Như Tô: Xin đa tạ tấm lòng tri kỷ. Đan Thiềm, xin cùng bà vĩnh biệt… Ta sẽ xây một đài vĩ đại để tạ lòng tri kỷ… Dẫn ta ra mắt An Hòa hầu, để ta phân trần… Ta chỉ có một hoài bão là tô điểm đất nước… Vậy thì ta có tội gì?… Vài năm nữa, đài Cửu trùng hoàn thành, cao cả, huy hoàng…
Quân sĩ (vả miệng chàng): Câm ngay đi… Mày không biết mấy nghìn người chết vì Cửu trùng đài…
Ngô Hạch: Dẫn nó ra pháp trường.
Lũ quân vào: Kinh thành phát hỏa!… Chính An Hòa hầu!… Cửu trùng đài sắp là một đống tro tàn!
Vũ Như Tô: Vô lý! Vô lý!… Đốt thực rồi! Đốt thực rồi! Ôi đảng ác! Ôi muôn phần căm giận! Trời ơi! Phú cho ta cái tài làm gì? Ôi mộng lớn! Ôi Đan Thiềm! Ôi Cửu trùng đài!
Quân sĩ: Thực đáng ăn mừng.
Vũ Như Tô (chua chát): Thôi thế là hết. Dẫn ta đến pháp trường!
Màn hạ nhanh.
Mùa hạ năm 1941.
