Nhà thơ Nguyễn Đình Thi – Hào khí và suy tư
Nguyễn Đình Thi sinh ngày 20/12/1924 ở Luang Prabang (Lào), nguyên quán là làng Vũ Thạch, nay là phố Bà Triệu, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội.
| 32 phút đọc | lượt xem.
Nguyễn Đình Thi sinh ngày 20/12/1924 ở Luang Prabang (Lào), nguyên quán là làng Vũ Thạch, nay là phố Bà Triệu, phường Tràng Tiền, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội.
Tiểu sử tác giả
Nguyễn Đình Thi sinh ngày 20/12/1924 ở Luang Prabang (Lào), nguyên quán là làng Vũ Thạch, nay là phố Bà Triệu, phường Tràng Tiền, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội. Ông là một trong những danh nhân văn hóa xuất sắc của Việt Nam, một nghệ sĩ đa tài với những đóng góp to lớn cho nền văn học, âm nhạc, sân khấu và công tác quản lý văn hóa nghệ thuật.
Cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Đình Thi gắn liền với những giai đoạn lịch sử trọng đại của dân tộc, từ thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp, chống đế quốc Mỹ đến thời kỳ đổi mới. Năm lên sáu tuổi, ông cùng gia đình về quê hương. Ông say mê văn chương, âm nhạc, mỹ thuật từ nhỏ; học và tìm hiểu triết học khi còn là học sinh trường Bưởi, sau là ban Triết Trường Đại học Đông Dương.
Sự kết hợp hài hòa giữa văn hóa Đông và Tây trong tư duy của ông đã tạo nên một nhà văn hóa có tầm vóc và tầm nhìn chiến lược. Năm 18 tuổi, ông bắt tay viết các tác phẩm Triết học nhập môn, Triết học Kant, Triết học Nietzsche, Triết học Einstein, Triết học Descartes, Siêu hình học. Một tư duy, một tầm vóc, một sức viết phi thường.
Giai đoạn hình thành và bước đầu hoạt động cách mạng (1924 – 1945)
Nguyễn Đình Thi có một thời thơ ấu đặc biệt khi sinh ra tại Luang Prabang, Lào, nơi gia đình ông sinh sống trong thời kỳ đầu. Tuy nhiên, mảnh đất Hà Nội – quê hương tổ tiên – mới thực sự là nơi nuôi dưỡng tâm hồn và tài năng của ông. Hà Nội với ông là _Đây Hồ Gươm, Hồng Hà, Hồ Tây. Đây lắng hồn núi sông ngàn năm.
Đây Thăng Long, đây Đông Đô, đây Hà Nội, Hà Nội mến yêu….đây Ô Chợ Dừa kia Ô Cầu Dền làn áo xanh nâu Hà Nội tươi thắm… quanh co chen ngang rộn ràng Đồng Xuân, xanh tươi bát ngát Tây Hồ, Hàng Đào ríu rít Hàng Đường, Hàng Hàng Bạc, Hàng Gai_ như ông đã miêu tả trong tác phẩm Người Hà Nội (1947). Tình yêu sâu sắc với thủ đô và đất nước đã trở thành nguồn cảm hứng bất tận cho toàn bộ sự nghiệp sáng tác của ông.

Từ nhỏ, Nguyễn Đình Thi đã bộc lộ tài năng xuất chúng và khát khao tri thức. Ông được giáo dục theo phương thức Tây học tại trường Bưởi và sau đó là Đại học Đông Dương, nơi ông theo học ngành Triết học.
Sự tiếp xúc sớm với triết học phương Tây đã hình thành nên tư duy sâu sắc và tầm nhìn rộng lớn của ông. Văn hóa, triết học, mỹ học trong ông là sự kết nối, hòa đồng Đông – Tây, kim – cổ, là Phật Thích Ca Mâu Ni, Khổng Tử, Lão Trang, Chúa Je_sus, Đức Mahome, là Trung Hoa, Ấn Độ, Hy Lạp cổ đại, là thần thi ca Apollon, nữ thần Athena, Nguyễn Trãi, Nguyễn Du. Tư duy tổng hợp và khả năng hòa quyện các nền văn hóa khác nhau đã giúp ông trở thành một nhà văn hóa có chiều sâu đặc biệt.
Không chỉ dừng lại ở việc tiếp thu tri thức, Nguyễn Đình Thi còn thể hiện năng lực sáng tạo đáng kinh ngạc ngay từ khi còn rất trẻ. Ở tuổi 18, ông đã viết những tác phẩm nghiên cứu triết học một cách nghiêm túc và khoa học, điều này cho thấy trí tuệ sáng suốt và khát vọng tìm hiểu bản chất của sự vật hiện tượng.
Ông yêu thích văn hóa, văn học Pháp với những tác gia lớn như Hugo, Balzac, Stendhal, Musset, Vigny, Baudelaire vì trong tác phẩm của họ thấm đẫm triết lý nhân sinh. Ông đề cao triết học Đức với I. Kant, Heghen vì họ tư duy khúc triết, đề cao con người, đề cao thi ca, mỹ học. Sự am hiểu sâu sắc về văn hóa phương Tây cùng với nền tảng văn hóa truyền thống Việt Nam đã tạo nên một nhân cách văn hóa độc đáo, vừa có chiều sâu dân tộc vừa có tầm nhìn quốc tế.
Hoạt động cách mạng và vai trò lãnh đạo văn hóa (1945 – 1995)
Những năm 1940 ông tham gia Tổ Văn hóa Cứu quốc, sau đó là Hội Văn hóa Cứu quốc. Năm 1945 ông tham dự Quốc dân Đại hội Tân Trào, được bầu làm Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa I, II,III. Sự tham gia tích cực vào hoạt động cách mạng từ rất sớm cho thấy tinh thần yêu nước và ý thức trách nhiệm của một trí thức tiến bộ. Sau Cách mạng tháng Tám, Nguyễn Đình Thi làm Tổng thư ký Hội Văn hóa cứu quốc.
Trong kháng chiến chống Pháp, ông tiếp tục viết sách khảo luận triết học, viết văn, làm thơ, soạn nhạc, soạn kịch, viết lý luận phê bình. Ngay cả trong hoàn cảnh chiến tranh khắc nghiệt, ông vẫn duy trì hoạt động sáng tác đa dạng, thể hiện khát vọng cống hiến cho văn hóa dân tộc.
Giai đoạn từ 1958 đến 1989 là thời kỳ hoàng kim trong vai trò lãnh đạo văn hóa của Nguyễn Đình Thi. Từ năm 1958 đến năm 1989 làm Tổng Thư ký Hội Nhà văn Việt Nam. Từ năm 1995, ông là Chủ tịch Ủy ban toàn quốc Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam.
Trong các vị trí lãnh đạo quan trọng này, ông đã thể hiện tầm nhìn chiến lược và khả năng quản lý xuất sắc. Ông không chỉ là một nhà sáng tác tài năng mà còn là một nhà lãnh đạo văn hóa có tư duy đổi mới, luôn khuyến khích sáng tạo và thử nghiệm trong nghệ thuật.
Nguyễn Đình Thi là người có tư duy sâu sắc và tầm nhìn xa trong lĩnh vực quản lý văn hóa, văn nghệ. Trong vai trò lãnh đạo, quản lý, ông luôn coi trọng sự kết hợp giữa truyền thống và hiện đại, giữa sáng tạo và bảo tồn, giữa chuyên nghiệp, tinh hoa và bình dân, đại chúng. Triết lý quản lý văn hóa của ông thể hiện sự cân bằng khéo léo giữa các yếu tố, tạo điều kiện cho văn nghệ phát triển một cách toàn diện và bền vững.
Ông quan niệm rằng để nền văn hóa Việt Nam phát triển bền vững, cần phải dựa trên những giá trị cốt lõi của dân tộc, đồng thời mở rộng giao lưu, học hỏi, tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa thế giới. Trong bối cảnh đất nước còn đang trong giai đoạn chiến tranh và bị cô lập, tư duy này thể hiện tính chiến lược và đột phá đáng kể.
Di sản triết học và lý luận phê bình
Nguyễn Đình Thi không chỉ là một nhà sáng tác mà còn là một nhà lý luận sắc sảo với những đóng góp quan trọng cho lý luận phê bình văn học Việt Nam. Các tiểu luận lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật của ông không chỉ là những phân tích học thuật mà còn kết tinh trong đó tầm nhìn chiến lược, lý luận gắn kết chặt chẽ với thực tiễn sinh động. Phong cách phê bình của ông luôn mang tính xây dựng và nhân văn, không áp đặt quan điểm mà tôn trọng cá tính sáng tạo của nghệ sĩ.

Nguyễn Đình Thi đặc biệt coi trọng vai trò của lý luận, phê bình trong việc thẩm định, định hướng, hỗ trợ sáng tạo văn học, nghệ thuật. Các tác phẩm, bài nói của ông lúc còn rất trẻ, được giới chuyên môn đánh giá cao như tiểu luận _Sức sống của dân Việt Nam trong ca dao, cổ tích; bài diễn thuyết Dòng máu Việt Nam chảy trong ca dao (1944), đặc biệt là tùy bút Nhận đường nổi tiếng (Tạp chí Văn nghệ số 1, tháng 3 năm 1948). Những tác phẩm lý luận này không chỉ thể hiện trình độ học thuật cao mà còn là những định hướng tư tưởng quan trọng cho sự phát triển của văn học nghệ thuật Việt Nam.
Ông luôn trăn trở về sứ mệnh của văn hóa, văn nghệ và vai trò, trách nhiệm của văn nghệ sỹ trong xã hội. Văn nghệ phụng sự kháng chiến, nhưng cũng chính kháng chiến cũng đem đến cho văn nghệ nguồn cảm hứng và sức mạnh mới – đây là quan điểm đặc trưng của ông về mối quan hệ giữa văn nghệ và chính trị, giữa nghệ thuật và đời sống xã hội.
Ông nhấn mạnh rằng văn học, nghệ thuật phải song hành cùng chính trị, tư tưởng, kinh tế, văn hóa, xã hội và nhiều lĩnh vực khác của đời sống; văn nghệ sĩ cần bám sát những đổi thay của thời đại, đưa hơi thở của thời đại vào trong sáng tác của mình.
Tác phẩm tiêu biểu
Di sản văn hóa, văn nghệ của Nguyễn Đình Thi để lại cho đất nước thật đồ sộ, phong phú, quý giá. Trong văn học, ông là nhà văn có nhiều tìm tòi, đột phá ở thể loại văn xuôi, nhất là tiểu thuyết. Ông cũng là nhà thơ, nhà biên kịch, người sáng tác âm nhạc có nhiều đổi mới trong tư duy và cách tân nghệ thuật. Sự đa dạng trong sáng tác thể hiện tài năng toàn diện và khát vong sáng tạo không ngừng nghỉ của Nguyễn Đình Thi.
Ông không chỉ dừng lại ở một thể loại mà luôn tìm kiếm những hình thức biểu đạt mới, phù hợp với đặc điểm của từng giai đoạn lịch sử và yêu cầu của thời đại. Qua các tác phẩm của mình, ông đã góp phần quan trọng vào việc làm giàu và đổi mới nền văn học nghệ thuật Việt Nam, đặc biệt trong việc hình thành và phát triển những thể loại nghệ thuật mới.
Sáng tác văn xuôi – Tiểu thuyết Vỡ bờ
Các tác phẩm văn xuôi, như Xung kích, Thu Đông năm nay, Bên bờ sông Lô, Vào lửa, Mặt trận trên cao… thực sự là những dẫn chứng tiêu biểu cho quan niệm sáng tác và ý thức công dân của người nghệ sĩ.
Trong số các tác phẩm văn xuôi của Nguyễn Đình Thi, tiểu thuyết Vỡ bờ được coi là đỉnh cao nghệ thuật và là đóng góp quan trọng nhất của ông cho dòng tiểu thuyết Việt Nam hiện đại. Đặc biệt, bộ tiểu thuyết hai tập Vỡ bờ đã đưa Nguyễn Đình Thi lên vị thế tiên phong của dòng tiểu thuyết sử thi hào hùng và lãng mạn của nền văn học nước ta giai đoạn 1946 – 1985.
Tiểu thuyết Vỡ bờ không chỉ là một tác phẩm văn học mà còn là một bức tranh lịch sử sống động về giai đoạn cách mạng của dân tộc Việt Nam. Tác phẩm thể hiện khả năng tổng hợp và tái hiện thực tế xã hội một cách sâu sắc và toàn diện của tác giả.
Qua những nhân vật và tình huống được xây dựng công phu, ông đã thể hiện được những biến động lớn của xã hội Việt Nam trong giai đoạn lịch sử quan trọng. Ông cho rằng: Sống được cuộc sống kháng chiến của dân tộc, hiểu được hướng đi tới của xã hội ta hiện thời, cảm xúc được những cảm xúc mới của kháng chiến; tất cả vấn đề sáng tác quyết định ở điều ấy.
Tính tiên phong của Vỡ bờ không chỉ thể hiện ở nội dung mà còn ở phương thức nghệ thuật. Tác phẩm đã mở ra một hướng mới trong việc xây dựng tiểu thuyết sử thi, kết hợp giữa yếu tố hào hùng và lãng mạn một cách hài hòa. Nguyễn Đình Thi đã vận dụng những kỹ thuật nghệ thuật hiện đại để tái hiện không chỉ các sự kiện lịch sử mà còn tâm lý, tình cảm của con người trong những biến cố lớn.
Cách tiếp cận này đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến thế hệ các nhà văn sau và góp phần định hình dòng chảy của tiểu thuyết Việt Nam hiện đại. Sự thành công của Vỡ bờ đã chứng minh khả năng của văn học Việt Nam trong việc tiếp thu và vận dụng sáng tạo những thành tựu nghệ thuật của thế giới để phản ánh thực tế dân tộc.
Thơ ca cách mạng – Đất nước, Người Hà Nội
Ở thể loại thơ, những tác phẩm bất hủ của ông như Đất nước, Nhớ, Bài thơ Hắc Hải, Lá đỏ… là minh chứng sinh động cho tình yêu thương, gắn bó tha thiết với đất nước, con người Việt Nam vất vả, đau thương tươi thắm vô ngần, rũ bùn đứng dậy sáng lòa.
Trong số các tác phẩm thơ của Nguyễn Đình Thi, Đất nước được coi là kiệt tác đại diện cho phong cách thơ tự do và tình cảm yêu nước sâu sắc của ông. Với Đất nước, ông được coi là một trong những nhà thơ tiêu biểu nhất của văn học Việt Nam hiện đại. Bài thơ kết hợp chất hiện thực, lãng mạn và hào sảng, thể hiện tình yêu sâu sắc với đất nước.

Bài thơ Đất nước nổi tiếng của Nguyễn Đình Thi không chỉ là một tác phẩm nghệ thuật mà còn là kết tinh từ những trải nghiệm và suy tư sâu sắc của ông. Tác phẩm này thể hiện một cách tiếp cận mới trong việc biểu đạt tình cảm yêu nước, không chỉ dừng lại ở việc tôn vinh vẻ đẹp của thiên nhiên mà còn thể hiện niềm tin vào sức mạnh của con người Việt Nam và tương lai tươi sáng của đất nước.
Bài thơ được xây dựng theo cấu trúc mở, với những hình ảnh thơ mộng nhưng cũng đầy sức mạnh, tạo nên một tác phẩm vừa có tính chất trữ tình cao vừa mang ý nghĩa chính luận sâu sắc.
Người Hà Nội là một tác phẩm đặc biệt khác của Nguyễn Đình Thi, thể hiện tình yêu đặc biệt của ông với thủ đô Hà Nội. Người Hà Nội là bài ca mang vẻ đẹp hào hùng, khắc họa tinh thần kiên cường của người dân Thủ đô trong kháng chiến chống Pháp. Tác phẩm này không chỉ là một bài thơ mà còn được phổ thành nhạc, trở thành một ca khúc bất hủ trong kho tàng âm nhạc cách mạng Việt Nam.
Nguyễn Đình Thi từng kể rằng, bài hát Người Hà Nội ra đời khi ông chứng kiến cảnh bom đạn tàn phá thành phố. Trong một căn hầm trú ẩn chật chội, tiếng đàn guitar mộc mạc cất lên cùng lời ca chân thật về tình yêu Hà Nội đã khiến mọi người cảm động. Hoàn cảnh sáng tác đặc biệt này đã tạo nên sức cảm động đặc biệt cho tác phẩm.
Kịch nghệ đổi mới – Con nai đen, Nguyễn Trãi ở Đông Quan
Về sân khấu, sự xuất hiện bất ngờ của các kịch bản Con nai đen (1961), Hoa và Ngần (1974), Giấc mơ (1977), Rừng trúc (1978), Nguyễn Trãi ở Đông Quan (1979), Người đàn bà hóa đá (1980), Tiếng sóng (1980), Cái bóng trên tường (1982), Trương Chi (1983), Hòn cuội (1986)… trong đó, số phận khá long đong của Con nai đen, Rừng trúc, Nguyễn Trãi ở Đông Quan, Cái bóng trên tường, Hòn cuội… đều xuất phát từ tư duy, bản lĩnh, tài năng và sự sáng tạo nghệ thuật, luôn tìm lối mới, cách đi riêng, nói giọng riêng của Nguyễn Đình Thi. Trong lĩnh vực kịch nghệ, Nguyễn Đình Thi được coi là một nhà cách tân táo bạo và tiên phong.
Con nai đen là một trong những tác phẩm kịch tiêu biểu nhất của ông, thể hiện tư duy đột phá và quan điểm nghệ thuật độc đáo. Vở kịch Con nai đen của ông bị cấm diễn một thời gian vì lý do kiểm duyệt, nhưng lại được người trong giới sân khấu đánh giá rất cao vì sự độc đáo và tính triết lý.
Tác phẩm này không theo con đường truyền thống mà tìm kiếm những cách thức biểu đạt mới, sử dụng các biểu tượng và ẩn dụ sâu sắc để truyền tải thông điệp. Một lần, khi được hỏi về việc tác phẩm bị cấm, ông chỉ mỉm cười và nói: Nai đen thì phải ở trong rừng, khi nào trời sáng nó sẽ tự bước ra. Lời nói đầy hình ảnh này vừa mang tính triết lý, vừa thể hiện thái độ điềm tĩnh của ông trước nghịch cảnh.

Nguyễn Trãi ở Đông Quan là một tác phẩm kịch lịch sử quan trọng khác, thể hiện cách tiếp cận mới của Nguyễn Đình Thi đối với các nhân vật lịch sử. Ông tiên phong trong việc đưa các chất liệu hiện thực và lịch sử vào sân khấu. Tuy nhiên, một số vở như Con nai đen, Nguyễn Trãi ở Đông Quan đã gặp phải sự kiểm duyệt vì tính táo bạo trong góc nhìn lịch sử.
Trong tác phẩm này, ông không chỉ tái hiện một nhân vật lịch sử mà còn đưa ra những suy tưởng triết lý sâu sắc về số phận con người, về mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội. Chính những cách tân táo bạo trong hình tượng kịch, sự đổi mới ngôn ngữ nghệ thuật, triết lý nhân sinh sâu sắc và sự đan cài, hòa quyện nhuần nhuyễn văn hóa Đông – Tây, kim – cổ; truyền thống và hiện đại; kế thừa và tiếp nhận, tiếp biến… được hun đúc từ trái tim, khối óc của một nghệ sĩ tài năng, tâm huyết, chan chứa yêu thương với con người, với cuộc đời, với đất nước, với dân tộc.
Sáng tác âm nhạc cách mạng
Trong lĩnh vực âm nhạc, dù dừng chân không lâu và chỉ có 6 ca khúc trong sự nghiệp sáng tác: Căm hờn, Diệt phát xít, Du kích quân (1945), Người Hà Nội (1947), Con voi (1948), Đất nước yêu thương (1977) nhưng Nguyễn Đình Thi vẫn để lại dấu ấn sáng tạo đậm nét, tâm hồn đẹp đẽ, nhân văn của người nghệ sĩ – chiến sĩ. Mặc dù số lượng tác phẩm âm nhạc không nhiều, nhưng chất lượng và ảnh hưởng của chúng đến nền âm nhạc cách mạng Việt Nam là vô cùng to lớn. Ông đã hoàn thành xuất sắc vai trò tạo sự kết nối giữa nghệ thuật với cách mạng trong bối cảnh đất nước đang chuyển mình, cách mạng đang sục sôi.
Diệt phát xít là ca khúc đầy khí thế, góp phần cổ vũ phong trào cách mạng năm 1945. Tác phẩm này thể hiện tinh thần kiên quyết đấu tranh chống kẻ thù của nhân dân ta trong thời kỳ đầu của cuộc kháng chiến. Sinh thời, Nguyễn Đình Thi từng thổ lộ: Tôi không dám nhận mình là nhạc sĩ, tuy nhiên, hai tuyệt phẩm ông sáng tác ở lứa tuổi đôi mươi Diệt phát xít và Người Hà Nội cũng đủ để tất cả chúng ta tôn vinh ông là một nhạc sỹ lớn, cùng Văn Cao, Đỗ Nhuận, Lưu Hữu Phước, Nguyễn Xuân Khoát, Xuân Oanh, Nguyễn Thành, Nguyễn Văn Thương…mở đường, dẫn lối cho nền âm nhạc cách mạng Việt Nam.
Một trong những đóng góp quan trọng của Nguyễn Đình Thi trong lĩnh vực âm nhạc là việc khai phá và phát triển hai thể loại quan trọng – hành khúc (march) và trường ca (epic song). Các ca khúc của Nguyễn Đình Thi đã trở thành một phần ký ức lịch sử dân tộc, khơi dậy niềm tự hào đối với quê hương Hà Nội thân thương và đất nước Việt Nam yêu dấu. Sự kết hợp giữa nội dung chính trị và giá trị nghệ thuật trong các tác phẩm âm nhạc của ông đã tạo nên những ca khúc vừa có tính giáo dục cao vừa có sức lan tỏa mạnh mẽ trong quần chúng nhân dân.
Sức ảnh hưởng của nhà văn
Nguyễn Đình Thi đã để lại một di sản văn hóa đồ sộ với những tác phẩm có giá trị nhiều mặt, sống mãi với thời gian. Thành công trong các sáng tác của ông nổi rõ ở tính tư tưởng, tính nhân văn, nghệ thuật đặc sắc, bút pháp phóng khoáng mà nhuần nhị; ở đó, hòa quyện lòng yêu nước với lý tưởng tưởng cách mạng, tính dân tộc và tính hiện đại, tiếp thu tinh hoa văn hóa thế giới, nhất là văn hóa Pháp, Nga, châu Âu, khát vọng tự do và bản chất nhân hậu, đằm thắm rất Việt Nam.
Sức ảnh hưởng của Nguyễn Đình Thi không chỉ dừng lại ở các tác phẩm sáng tác mà còn thể hiện qua vai trò định hướng và dẫn dắt của ông đối với nền văn học nghệ thuật Việt Nam trong suốt nhiều thập kỷ. Là một trong những nhà văn hóa có tầm ảnh hưởng lớn nhất thế kỷ XX, ông đã góp phần định hình diện mạo của văn học Việt Nam hiện đại và tạo ra những chuẩn mực mới trong sáng tác nghệ thuật.
Ảnh hưởng đến văn học đương đại
Đó là cá tính sáng tạo mạnh mẽ, bản lĩnh tiên phong, trăn trở tìm tòi hướng đi mới trong thơ Việt Nam hiện đại, nhất là thể thơ tự do (free verse). Chính những đổi mới, những tìm tòi thể nghiệm táo bạo này đã khiến thơ ông trở thành đề tài gây sự chú ý, nhất là những cuộc tranh luận có nhiều lúc nảy lửa suốt một thời gian dài. Và ông đã tạo ra những khác biệt, những giọng điệu, phong cách riêng của thơ tự do, phóng khoáng, hào sảng, đằm thắm, suy tưởng, ám ảnh. Sự đổi mới này không chỉ ảnh hưởng đến thời đại của ông mà còn tác động sâu sắc đến các thế hệ nhà thơ sau này.

Từ năm 1949, khi 25 tuổi, ông viết bài thơ Em bảo anh tặng văn sĩ Pháp Madeleine Riffaud với những vần thơ đầy cảm xúc và triết lý: Em bảo anh: Nếu chỉ có đôi ta/ Thì có yêu nhau cũng không sống được/ Em bảo anh: Khi chúng ta nằm bên nhau/ Thì bao đồng chí đang nằm hầm sâu/ Em bảo anh: Mỗi vết bùn chúng ta mang trên mặt/ Trong mắt người yêu biến thành nước mắt/ Và mỗi tia lửa vút bay lên cao/ Trong mắt người yêu biến thành trời sao. Bài thơ này không chỉ thể hiện tài năng thơ ca của ông mà còn cho thấy tư duy hiện đại trong cách tiếp cận tình yêu và cách mạng, cá nhân và tập thể.
Cho đến nay, thế hệ các nhà thơ trẻ Việt Nam đã, đang kế thừa và phát huy những thành tựu và hướng tìm tòi mấy chục năm trước của nhà thơ Nguyễn Đình Thi. Ảnh hưởng của ông đối với thơ ca Việt Nam hiện đại không chỉ thể hiện ở việc kế thừa phong cách và kỹ thuật mà còn ở tinh thần đổi mới, dám nghĩ dám làm và luôn tìm kiếm những giá trị nghệ thuật mới. Nhiều nhà thơ trẻ ngày nay vẫn coi Nguyễn Đình Thi là một trong những người thầy tinh thần quan trọng trong hành trình sáng tác của mình.
Vai trò định hướng văn hóa nghệ thuật
Cùng với sự nghiệp sáng tác văn nghệ, sáng tạo văn hóa, Nguyễn Đình Thi còn là một nhà lãnh đạo văn hóa, văn nghệ tài ba, xuất sắc. Ông tham gia cùng các cơ quan, đơn vị giúp Đảng, Nhà nước xây dựng, bổ sung, hoàn thiện đường lối, chính sách phát triển văn hóa, văn nghệ kháng chiến, kiến quốc.
Nhất là trên các cương vị Tổng thư ký Hội Văn hóa Cứu quốc, Tổng thư ký Hội Văn nghệ Việt Nam, Tổng thư ký Hội Nhà văn Việt Nam, Chủ tịch Uỷ ban Toàn quốc Liên hiệp các hội văn học nghệ thuật Việt Nam, ông đã thể hiện tầm tư duy, trí tuệ, tầm nhìn chiến lược và khả năng nắm bắt hơi thở đời sống đất nước.
Những vị trí công tác mà ông từng trải qua, mọi người không chỉ khâm phục tài năng, uy tín về chuyên môn của ông mà còn quý trọng những ý tưởng, góc nhìn từ ông về xây dựng và phát triển nền văn hóa, văn nghệ Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, phù hợp với từng giai đoạn lịch sử, từ thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ đến thời kỳ hòa bình, đổi mới. Ông luôn nhấn mạnh rằng văn học, nghệ thuật phải song hành cùng chính trị, tư tưởng, kinh tế, văn hóa, xã hội và nhiều lĩnh vực khác của đời sống; văn nghệ sĩ cần bám sát những đổi thay của thời đại, đưa hơi thở của thời đại vào trong sáng tác của mình.
Nguyễn Đình Thi luôn khuyến khích mọi người tạo môi trường tốt nhất cho sáng tạo văn học, nghệ thuật, tôn trọng yêu cầu dân chủ, nhân văn, đổi mới, thể hiện cá tính sáng tạo của người nghệ sỹ trong tác phẩm.
Với những bài viết lý luận, phê bình sâu sắc, đằm thắm cùng phong cách lãnh đạo cởi mở, gần gũi, Nguyễn Đình Thi đã trở thành một người bạn, người thầy, người truyền cảm hứng cho nhiều thế hệ văn nghệ sĩ trẻ. Ông luôn khuyến khích các nghệ sĩ trẻ thử nghiệm và đổi mới, không ngại phá vỡ các khuôn mẫu để tìm kiếm những giá trị mới mẻ hơn.
Đóng góp cho giao lưu văn hóa quốc tế
Nguyễn Đình Thi là người có công lao to lớn trong việc thúc đẩy các hoạt động giao lưu văn hóa giữa Việt Nam và các nước trên thế giới, giúp giới trí thức, văn nghệ sĩ quốc tế hiểu đúng hơn về đất nước, con người Việt Nam, từ đó, có thái độ đồng tình, ủng hộ cuộc đấu tranh giành độc lập, tự do của Việt Nam.
Hành trình tiếp nhận và lan tỏa di sản văn hóa, văn nghệ của Nguyễn Đình Thi còn vượt ra ngoài biên giới, để lại dấu ấn trong lòng người yêu mến văn nghệ ở nước ngoài, nhất là người Việt xa quê. Một số vở kịch của ông như Nguyễn Trãi ở Đông Quan hay Rừng trúc không chỉ được trình diễn trong nước mà còn được giới thiệu tại các liên hoan sân khấu quốc tế.
Ngoài mục tiêu trên, trong vai trò của người lãnh đạo văn nghệ, hơn ai hết, ông hiểu sâu sắc rằng việc học hỏi và giao lưu với các nền văn hóa khác sẽ giúp văn học, nghệ thuật Việt Nam phát triển phong phú hơn, mạnh mẽ hơn, từng bước xác lập vị thế của văn hóa, văn nghệ Việt Nam trên trường quốc tế. Tư duy mở cửa và hội nhập của ông đã góp phần quan trọng vào việc đưa văn hóa Việt Nam ra thế giới và tiếp thu có chọn lọc những tinh hoa văn hóa nhân loại về phục vụ sự phát triển của dân tộc.
Đánh giá trên văn đàn và trong lòng độc giả
Ở trong nước, các tác phẩm của Nguyễn Đình Thi đã trở thành một phần không thể thiếu trong đời sống văn hóa, văn nghệ của nhân dân ta. Một số tác phẩm thơ, văn, kịch, nhạc của ông được giảng dạy trong các trường học, từ phổ thông đến đại học, trong các sinh hoạt văn hóa ở làng quê hay phố thị, được nhiều giới, nhiều người yêu thích.
Sự công nhận và trân trọng của xã hội đối với Nguyễn Đình Thi không chỉ thể hiện qua những đánh giá học thuật mà còn qua sự yêu mến chân thành của độc giả qua nhiều thế hệ. Bằng tài năng và cống hiến xuất sắc của Nguyễn Đình Thi cho nền văn hóa, văn nghệ nước nhà trên cả hai lĩnh vực sáng tác và lãnh đạo, quản lý, ông đã được Đảng, Nhà nước tặng thưởng Huân chương Độc lập hạng Nhất, Huy hiệu 50 năm tuổi Đảng, Giải thưởng Hồ Chí Minh (đợt 1) về văn học – nghệ thuật và nhiều phần thưởng cao quý khác.
Đánh giá từ giới chuyên môn
Trong giới học thuật và phê bình văn học, Nguyễn Đình Thi được đánh giá là một trong những nhà văn có ảnh hưởng lớn nhất đối với sự phát triển của văn học Việt Nam hiện đại. Các nhà nghiên cứu văn học đều thống nhất rằng ông đã góp phần quan trọng vào việc xây dựng và phát triển nhiều thể loại văn học mới, đặc biệt là thơ tự do và tiểu thuyết sử thi. Năm 1996, Nguyễn Đình Thi được trao Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật, ghi nhận những cống hiến xuất sắc của ông. Đây là sự công nhận cao nhất của Nhà nước đối với những đóng góp của ông cho nền văn hóa dân tộc.
Các nhà phê bình văn học đánh giá cao khả năng đổi mới nghệ thuật của Nguyễn Đình Thi. Ông được coi là một trong những nhà văn tiên phong trong việc ứng dụng những kỹ thuật nghệ thuật hiện đại vào văn học Việt Nam, đồng thời vẫn giữ được bản sắc dân tộc đậm đà.
Sự kết hợp giữa truyền thống và hiện đại trong các tác phẩm của ông đã tạo nên một phong cách độc đáo, vừa mang tính dân tộc vừa có tầm vóc quốc tế. Điều này được thể hiện rõ nét trong cách ông tiếp cận và xử lý các chủ đề lịch sử, xã hội với tư duy nghệ thuật tiến bộ.
Trong lĩnh vực lý luận và phê bình văn học, Nguyễn Đình Thi cũng được đánh giá cao với những đóng góp quan trọng. Các tác phẩm lý luận của ông không chỉ có giá trị học thuật mà còn có tác dụng định hướng và hướng dẫn cho hoạt động sáng tác. Phong cách phê bình của ông được nhiều người đánh giá là khách quan, sâu sắc và mang tính xây dựng cao. Ông luôn tôn trọng cá tính sáng tạo của nghệ sĩ và khuyến khích sự đa dạng trong nghệ thuật, điều này đã tạo nên một môi trường văn học dân chủ và sáng tạo.
Tình cảm của độc giả
Trong lòng độc giả, Nguyễn Đình Thi không chỉ là một nhà văn tài năng mà còn là một con người gần gũi và đáng kính. Những tác phẩm của ông đã đi vào lòng nhiều thế hệ độc giả với tình cảm chân thành và sâu sắc. Đặc biệt, các bài thơ như Đất nước, các ca khúc như Người Hà Nội, Diệt phát xít đã trở thành những tác phẩm thuộc lòng của nhiều người Việt Nam. Sự yêu mến của độc giả đối với Nguyễn Đình Thi không chỉ thể hiện ở việc đọc tác phẩm mà còn ở việc truyền tụng, học thuộc lòng và áp dụng những triết lý sống trong các tác phẩm của ông vào đời sống thực tế.
Nguyễn Đình Thi không chỉ là một nhà thơ nghiêm túc mà còn là một người rất hài hước. Trong các buổi họp mặt, ông thường kể những câu chuyện tiếu lâm hoặc làm thơ ứng tác khiến mọi người cười sảng khoái. Một lần, khi nói về thói quen đổi gió trong sáng tác, ông bông đùa: Viết mãi thơ mà không đổi qua nhạc hay kịch, thì ngòi bút cũng mỏi tay chứ? Tính cách hài hước và gần gũi này đã làm cho hình ảnh của ông trở nên thân thiết hơn trong lòng độc giả và đồng nghiệp.
Di sản và tương lai
Di sản quý báu mà Nguyễn Đình Thi để lại cho công tác lãnh đạo, quản lý hoạt động văn hóa, văn nghệ còn là đóng góp của ông trong việc xây dựng và phát triển các tổ chức văn học, nghệ thuật, các thiết chế văn hóa, văn nghệ, điển hình là Hội Nhà văn Việt Nam và Liên hiệp các hội văn học nghệ thuật Việt Nam, nơi ông giữ vai trò lãnh đạo trong nhiều năm liền. Những đóng góp này không chỉ có ý nghĩa trong thời đại của ông mà còn tạo nền tảng vững chắc cho sự phát triển của văn học nghệ thuật Việt Nam trong tương lai.
Hiện nay, việc bảo tồn và phát huy di sản văn hóa của Nguyễn Đình Thi đang được quan tâm đúng mức. Di sản của Nguyễn Đình Thi đã trở thành tài sản quý giá, thành biểu tượng cụ thể về danh nhân văn hóa Việt Nam. Do đó, rất cần có sự nghiên cứu kỹ lưỡng, đầu tư đồng bộ và lâu dài, từ công tác bảo tồn, bảo tàng đến tuyên truyền, quảng bá.
Sử dụng công nghệ số để số hóa các tác phẩm, tư liệu, hiện vật; xây dựng các nền tảng trực tuyến giới thiệu về Nguyễn Đình Thi, tổ chức các sự kiện trực tuyến giúp lan tỏa giá trị di sản Nguyễn Đình Thi ở trong và ngoài nước.
Nhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh của Nguyễn Đình Thi, chúng ta tưởng nhớ và tri ân một cây đại thụ của văn học Việt Nam. Những đóng góp của ông không chỉ làm giàu thêm nền văn hóa nước nhà mà còn truyền cảm hứng cho nhiều thế hệ nghệ sĩ tiếp bước.
Cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Đình Thi để lại nhiều bài học quý giá: tâm hồn đa dạng của một nghệ sĩ thực thụ, tinh thần dân tộc luôn hướng về đất nước và con người, sự sáng tạo không ngừng trong tìm tòi và đổi mới nghệ thuật. Ông ra đi, nhưng tên tuổi và những tác phẩm của ông mãi là niềm tự hào của văn học nghệ thuật nước nhà.
