Tại sao các nhà khoa học tránh khả năng về Chúa?
Khi nói đến nguồn gốc của Vũ trụ chúng ta, các nhà khoa học bàn về Vụ nổ lớn, lạm phát Vũ trụ và các lý thuyết khác. Vậy tại sao Chúa không được nhắc đến?
| 27 phút đọc | lượt xem.
Khi nói đến nguồn gốc của Vũ trụ chúng ta, các nhà khoa học bàn về Vụ nổ lớn, lạm phát Vũ trụ và các lý thuyết khác. Vậy tại sao Chúa không được nhắc đến?
Mở đầu
Ở Vũ trụ của chúng ta, mục tiêu chính của nỗ lực khoa học là làm sáng tỏ tối đa mọi hiện tượng mà chúng ta có thể tri giác, quan sát và đo lường bằng một cách nào đó. Chúng ta nỗ lực không chỉ để mô tả bản chất của thực tại một cách toàn diện và chính xác nhất có thể, mà còn để xây dựng các mô hình về thực tại cho phép đưa ra những dự đoán chính xác về những gì ta có khả năng quan sát được nếu cho trước bất kỳ tập hợp điều kiện ban đầu nào.

Trong kịch bản tốt nhất, chúng ta có thể tạo nên một lý thuyết vật lý hoàn chỉnh, nhất quán về logic để mô tả thực tại, và lý thuyết ấy sẽ có miền hiệu lực cực kỳ rộng, cho phép ta dự đoán cả những hiện tượng vốn chưa từng lường trước.
Phương pháp này đã đem lại thành công vang dội cho khoa học, vì chúng ta đã khám phá được Vũ trụ cấu thành từ những gì, theo tỷ lệ nào, và các định luật lực chi phối các thang vật lý từ hạ nguyên tử cho đến Vũ trụ học là gì. Chúng ta truy vấn trực tiếp Vũ trụ, đặt câu hỏi với tự nhiên thông qua các thí nghiệm, phép đo và quan sát khoa học, nhằm hé lộ điều gì chi phối thực tại, bao gồm cả việc xác định nguồn gốc tối hậu và định mệnh tối hậu của chính mình. Nhưng khi tự giới hạn vào cái vật lý, liệu chúng ta có đang bỏ sót khả năng rất thực về cái siêu nhiên không, cụ thể là bàn tay của Chúa trong Vụ nổ lớn? Đó là điều Barry Fetzer muốn biết, khi tiếp nối bài viết gần đây để hỏi: Nếu trí tưởng tượng của chúng ta, trên thực tế, là không giới hạn, thì Chúa phải được xem như một lý do cho sự tồn tại của chúng ta. Dẫu một vài lý thuyết khác mà anh liệt kê có hoang dại đến đâu đi nữa (kiểu Vùng Chạng Vạng với các chiều không gian bổ sung?), thì thiết kế thông minh cũng nên được nêu tên chứ? Tại sao có những nhà khoa học lẽ ra phải cởi mở với mọi khả năng lại thường từ chối thậm chí cho phép khả năng thiết kế thông minh?
Tôi tạm gỡ lệnh hạn chế giữa khoa học và tôn giáo để cân nhắc câu hỏi này một cách công bằng và trung thực nhất có thể. Xét cho cùng, khoa học không thể loại trừ cái siêu nhiên. Vậy một nhà khoa học nên suy nghĩ có trách nhiệm thế nào về những câu hỏi lớn, hiện sinh này? Hãy cùng đi sâu vào vấn đề.

Đây là bức ảnh đầu tiên của Sgr A, hố đen siêu khối lượng ở tâm Dải Ngân Hà của chúng ta. Đây là bằng chứng trực quan trực tiếp đầu tiên về sự hiện diện của hố đen này. Ảnh được chụp bởi Kính Thiên Văn Chân Trời Sự Kiện (EHT), một mảng liên kết tám đài quan sát vô tuyến hiện có trên khắp hành tinh để tạo thành một kính thiên văn ảo cỡ Trái Đất. Khối lượng đo được là 4,3 triệu khối lượng Mặt Trời đặt nó vào nhóm nhỏ nhất trong các hố đen siêu khối lượng, và nó có entropy xấp xỉ 10^91 kB, tức khoảng 1000 lần lượng entropy từng nằm trong Vũ trụ quan sát được cách đây khoảng 13,8 tỷ năm.
Nơi đầu tiên chúng ta cần bắt đầu là chính quy trình bằng đó ta thu thập thông tin về Vũ trụ – điều mà các nhà khoa học gọi là tập dữ liệu nền tảng. Mọi thứ mà ta quan sát hay đo lường được trong tồn tại đều có tiềm năng trở thành một điểm dữ liệu đóng góp vào tập dữ liệu như vậy. Ở tầng cơ bản, chúng ta học về Vũ trụ bằng cách thu thập những thông tin mà nó tự bộc lộ về chính nó thông qua:
– Thực nghiệm.
– Đo đạc.
– Quan sát.
Bất chấp niềm yêu thích dành cho các lý thuyết, ý tưởng và giả thuyết trong khoa học, cốt lõi của nỗ lực khoa học là đối chiếu những ý tưởng ấy với các thực tại của tự nhiên. Từ thiên văn học đến vật lý, hóa học, sinh học, địa chất, y học, tâm lý học và các khoa học xã hội, dữ liệu mà chúng ta thu thập là cánh cửa sổ tốt nhất nhìn vào thực tại của tự nhiên mà ta có.
Đó là lý do tại sao các nhà khoa học – ngay cả những người làm lý thuyết như tôi – thường xuyên kêu gọi tầm quan trọng của thí nghiệm, và của việc đưa câu hỏi thực tại giống như thế nào tới chính thực tại vật lý của chúng ta và tới chính Vũ trụ. Cách chúng ta học về thực tại không phải bằng việc nghĩ về thực tại, mà là bằng việc đo được cái gì là thật, rồi dùng thực tại đo được ấy để thông tin, kiểm tra, kiểm chứng và bác bỏ những ý tưởng khác nhau quanh việc thực tại có thể là gì. Trí tưởng tượng, lý thuyết và các dự đoán toán học có thể đưa ta đi muôn nơi về những cách mà thực tại có thể hiện hữu, nhưng chính các quan sát và phép đo về thực tại mới cho phép ta chọn ra thực tại thực sự là như thế nào.
Như từng minh họa trong một tập của MythBusters, một vật phóng lùi lại từ một phương tiện đang tiến về phía trước với đúng cùng tốc độ sẽ trông như rơi thẳng xuống ở trạng thái đứng yên – vận tốc của chiếc xe tải và vận tốc thoát ra từ nòng phóng triệt tiêu chính xác lẫn nhau trong cảnh quay này. Nếu bạn tính toán thời điểm quả cầu chạm đất kể từ khoảnh khắc nó được thả, bạn thực sự sẽ nhận được hai nghiệm thời gian: một nghiệm dương và một nghiệm âm. Chỉ có vật lý mới cho bạn biết nghiệm nào (nghiệm dương) tương ứng với thực tại.
Tiếp theo, chúng ta sẵn sàng chuyển sang cách ta lý giải dữ liệu ấy, một lần nữa dưới góc nhìn khoa học. Nhiều người nhầm tưởng rằng mục tiêu của một lý thuyết khoa học là mô tả những gì thực sự xảy ra trong tự nhiên, và cụ thể là nói cho bạn biết các hiện tượng kết cục nào sẽ nảy sinh từ một bộ điều kiện ban đầu cho trước. Khoa học và các lý thuyết khoa học dĩ nhiên có thể hoàn thành nhiệm vụ đó trong một số trường hợp, nhưng đó không phải là mô tả toàn diện về mục tiêu của một lý thuyết khoa học. Thực ra, dự đoán trạng thái cuối của một hệ chỉ là một phần rất nhỏ trong những gì khoa học làm được khi nói đến việc lý giải thực tại.
Xét về các mục tiêu của khoa học, điều chúng ta kỳ vọng có thể mô tả theo các tầng. Tầng thấp nhất là xây dựng một mô hình của một khía cạnh nào đó của thực tại sao cho hữu ích trong việc mô tả khía cạnh ấy, và là một mô hình thành công ở nơi các mô hình khác thất bại. Một ví dụ như vậy từ thời cổ đại liên quan đến bản chất của gió. Cách đây hàng nghìn năm, nhiều người cho rằng gió là một yếu tố cơ bản, và nó cần một động lực nào đó để tạo ra nó, như đại dương, miệng phun núi lửa, hoặc con người thổi hơi từ miệng. Trong khi đó, những người khác lại cho rằng không khí vẫn tồn tại ngay cả khi không có gió, và rằng không khí chiếm chỗ và thậm chí có thể tự tác dụng lực.
Làm sao chúng ta quyết định được mô hình khoa học nào phản ánh thực tại tốt hơn?
Bản đồ này thể hiện một khoảng thời gian ngắn dữ liệu gió trên khắp lục địa Hoa Kỳ. Trong khi nhiều người từng nghĩ gió là một hiện tượng đòi hỏi một nguồn và là một yếu tố cơ bản riêng, những người khác khẳng định gió chỉ là sự biểu hiện của không khí chuyển động, và rằng ngay cả bản thân không khí cũng chiếm chỗ và có khả năng tác dụng lực. Quan điểm sau từng là thiểu số, cho đến khi nhà triết học – nhà khoa học tiền Socrates Empedocles trình diễn câu trả lời.
Câu trả lời hóa ra lại đến từ thực nghiệm, và do nhà khoa học Hy Lạp cổ Empedocles cung cấp. Tuy Empedocles có lẽ nổi tiếng nhất nhờ triết học tự nhiên, ông đã tiến hành một thí nghiệm dùng một trái bầu rỗng ruột. Vào thời Empedocles, bầu thường được dùng để đựng nước. Người ta moi ruột, đục lỗ dưới đáy, và cắt một lỗ trên đỉnh để có thể đặt ngón tay bịt lại. Thiết bị này, gọi là kẻ trộm nước (clepsydra), được dùng để:
– Múc nước bằng cách nhấn trái bầu xuống suối, hồ hay sông.
– Mang nước bằng cách đặt ngón tay lên lỗ trên đỉnh, nhấc trái bầu đã đầy lên và đem theo.
– Rót nước như một chiếc bình tưới hoặc để chia nước vào các vật dụng uống bằng cách nhấc ngón tay ra và để nước chảy ra khỏi các lỗ dưới đáy.

Điều này thực sự đáng kinh ngạc. Nếu bạn dìm trái bầu xuống dòng nước, nó sẽ đầy nước. Nếu bạn nhấc trái bầu lên, nước sẽ rò ra ở phía dưới. Nhưng chỉ cần đặt ngón cái hay bàn tay bịt lỗ trên đỉnh, nước lập tức ngừng chảy ra khỏi các lỗ dưới đáy.
Vì sao? Chuyện gì đang diễn ra?
Hẳn phải có cái gì đó đang đẩy ngược lên nước ngay tại các lỗ phía dưới để ngăn nó rơi xuống. Nhưng khi không có gió thì chẳng có gì hiện hữu ở đó cả, vậy đó có thể là gì? Đây là cách chúng ta lý giải thế giới: ắt hẳn là không khí, ở phía dưới, đang chiếm chỗ và tác dụng lực. Dù chúng ta không trông thấy, ta biết nó phải ở đó vì ta quan sát được tác dụng của nó. Đó là cách Empedocles chứng minh rằng không khí chiếm chỗ, có thể tác dụng lực và tồn tại ngay cả khi không có gió.
Vài trái bầu canh khô với bề mặt loang lổ được treo bằng dây từ một cột gỗ, mời gọi giới khoa học suy ngẫm về nghệ thuật của tự nhiên – thậm chí có người còn nhận ra _một chút bàn tay của Chúa trong những hình dạng độc đáo của chúng.
Bộ sưu tập các trái bầu rỗng được dùng làm vật chứa nước. Thời cổ đại, người ta đục lỗ dưới đáy và một miệng ở trên, để có thể nhấn cả bình xuống để múc đầy nước, rồi đặt ngón tay bịt miệng trên và mang nước về cho đến khi sẵn sàng thả nước ra lần nữa.
Mô hình không khí tồn tại dù không có gió, và gió chỉ là không khí chuyển động là một mô hình khoa học tốt, và thực tế là tốt hơn mô hình đối lập, bởi nó giải thích thỏa đáng một hiện tượng mà mô hình kia không thể. Ngay cả khi không có gió, không khí vẫn đẩy lên nước tại các lỗ dưới đáy của chiếc bình.
Empedocles dĩ nhiên không biết mọi điều về tự nhiên. Ông không biết rằng không khí không phải là thứ cơ bản, mà được tạo nên từ các hạt cấu phần nhỏ – phân tử – tác dụng một áp suất (một lực trên một diện tích) phụ thuộc vào các thuộc tính như mật độ và nhiệt độ. Ông không biết rằng lý do khiến nước không rơi xuống khi bạn đặt ngón tay lên miệng kẻ trộm nước là vì nếu nó rơi thì bên trong dụng cụ chứa nước sẽ hình thành chân không: điều bị các quy tắc chi phối lực và áp suất cấm đoán đối với những vật liệu có mật độ như vậy. Và ông cũng không biết rằng khi bạn bỏ ngón tay khỏi miệng trên, nước rơi xuống là vì không khí tràn vào từ miệng trên của trái bầu, cho phép nước đồng thời chảy ra từ các lỗ ở đáy.
Vẫn còn rất nhiều điều để học, vì những gì Empedocles làm mới chỉ là khởi đầu của khoa học: đề xuất một mô hình thành công hơn các mô hình khác trong thời của ông, được kiểm chứng bằng quan sát, đo lường và thí nghiệm.
Một bàn tay cầm chai nhựa đựng nước trên bồn rửa, nước tuôn ra từ các lỗ ở đáy – minh họa việc ngay cả các nhà khoa học cũng khám phá khả thể đứng sau những hiện tượng đơn giản.

Nếu bạn đục lỗ dưới đáy một chai nước đã đầy, nước sẽ rò ra ở đáy nếu miệng trên không được bịt kín khí. Nếu miệng trên được bịt kín khí, nước không thể rò ra, chứng minh rằng không khí tác dụng một lực. Tuy nhiên, nếu không khí có thể ùa vào qua miệng trên, nước ở Trái Đất được tự do chảy qua các lỗ dưới đáy.
Theo nghĩa rất thực tế, điều này minh họa quy trình của khoa học. Chúng ta thường có thể bứt khỏi vạch xuất phát bằng cách nêu ra một ý tưởng hay giả thuyết đơn giản giải thích một hiện tượng tốt hơn mọi ý tưởng cạnh tranh khác, rồi kiểm định – xác minh rằng nó quả thật làm được như vậy bằng thí nghiệm, nhiều lần hay kỹ lưỡng tùy ý. Nhưng ta không dừng ở đó; ta có thể cải tiến ý tưởng ấy bằng cách nỗ lực xây dựng một khung khái quát hơn, bao trùm hay bao chứa ý tưởng hay giả thuyết đó, với năng lực giải thích mạnh hơn, năng lực dự đoán tốt hơn, và miền hiệu lực rộng hơn. Một minh họa tốt cho điều này là xét đến khoa học Vũ trụ học hiện đại: ngành khoa học tình cờ chứa các lý thuyết tốt nhất của chúng ta về nguồn gốc Vũ trụ.
Dẫu con người đã cố gắng lý giải Vũ trụ từ thời cổ đại, các mô hình tốt nhất khi ấy chỉ mô tả chứ không quy định. Chúng không cho bạn biết cách sự vật diễn ra; chúng chỉ giúp nói trước điều gì sẽ xảy ra. Chuyển động hành tinh được nghĩ theo quỹ đạo, như Ptolemy, Aristarchus hay thậm chí Copernicus, và các định kiến giả định (thiên vị đường tròn) tung hoành không kiểm soát. Chính Kepler đã vượt qua điều đó đầu tiên, đưa ra các định luật chuyển động hành tinh để giải thích quỹ đạo các hành tinh theo cách vượt trội, chính xác hơn tất cả các bậc tiền bối. Nếu chúng ta phát hiện ra Thiên Vương và Hải Vương tinh từ thời Kepler, các định luật của ông cũng có thể dự đoán được quỹ đạo của chúng, nhưng ngay cả Kepler cũng chưa liên hệ chuyển động hành tinh với trọng lực, và với gia tốc mà các vật rơi tự do trải nghiệm trên Trái Đất.
Ngay cả trước khi ta hiểu định luật hấp dẫn hoạt động ra sao, ta đã có thể xác lập rằng bất kỳ vật nào chuyển động quanh vật khác đều tuân theo định luật thứ hai của Kepler: nó quét những diện tích bằng nhau trong những khoảng thời gian bằng nhau, ngụ ý rằng nó phải chuyển động chậm hơn khi ở xa hơn và nhanh hơn khi ở gần hơn. Ở mọi điểm trên quỹ đạo của một hành tinh, các định luật của Kepler ấn định tốc độ mà hành tinh ấy phải chuyển động. Định luật lực mô tả các quỹ đạo kiểu Kepler mãi nhiều thế hệ sau mới được khám phá, khi Newton hoàn tất kỳ công đó.
Công việc ấy thuộc về Newton, người với định luật hấp dẫn phổ quát đã mở rộng rất xa miền hiệu lực của lý thuyết khoa học nhằm lý giải Vũ trụ. Các hành tinh có dạng cầu vì tự hấp dẫn của chúng. Vật rơi xuống Trái Đất vì cùng một lực hấp dẫn giữ Mặt Trăng trên quỹ đạo quanh Trái Đất. Các vệ tinh của Mộc Tinh và các vành của Thổ Tinh quay quanh hành tinh mẹ vì cùng một định luật hấp dẫn giữ các hành tinh quay quanh Mặt Trời. Và các ngôi sao khác cũng sẽ tác dụng lực hấp dẫn của riêng chúng, ngụ ý rằng chúng cũng có thể sở hữu những hệ sao và hệ hành tinh phong phú của riêng mình.
Phải mất hàng thế kỷ chúng ta mới chạm tới giới hạn của các lý thuyết Newton, với quỹ đạo Sao Thủy lệch so với dự đoán của Newton (và Kepler) một lượng nhỏ nhưng đáng kể. Đồng thời, các vật chuyển động gần tốc độ ánh sáng lại không tuân theo các định luật cơ học cổ điển: các định luật chuyển động của Newton. Lý thuyết điện từ của Maxwell chỉ ra tốc độ tối đa cho sự lan truyền của mọi tín hiệu – tốc độ ánh sáng trong chân không – nhưng hấp dẫn của Newton lại đòi hỏi trọng lực lan truyền tức thời với tốc độ vô hạn.
Cần có một loạt tiến bộ, những tia chớp thiên tài và các phép thử xác minh căng thẳng mới làm nên những bước đột phá then chốt, nhưng khi bụi lắng xuống, chúng ta có một lý thuyết hấp dẫn mới: thuyết tương đối rộng của Einstein.
Một hình động minh họa cách không thời gian đáp ứng khi một khối lượng chuyển động xuyên qua nó giúp phô bày chính xác rằng, về chất lượng, nó không chỉ là một tấm vải. Thay vào đó, toàn bộ không gian 3D tự thân bị uốn cong bởi sự hiện diện và các thuộc tính của vật chất và năng lượng trong Vũ trụ. Không gian không đổi hình dạng một cách tức thì ở khắp nơi, mà bị giới hạn bởi tốc độ mà trọng lực có thể truyền qua nó: tốc độ ánh sáng. Thuyết tương đối rộng là bất biến tương đối tính, cũng như các lý thuyết trường lượng tử, nghĩa là dẫu những người quan sát khác nhau không đồng ý về cái họ đo được, mọi đo đạc của họ đều nhất quán khi biến đổi đúng cách.
Trong suốt thế kỷ 20 và 21, chúng ta còn phát triển bức tranh về thực tại xa hơn nữa. Vật chất không chỉ được tạo ra từ nguyên tử và phân tử, mà còn từ các lượng tử hạ nguyên tử cơ bản kết hợp với nhau để tạo nên mọi dạng vật chất mà ta gặp ở Trái Đất. Hấp dẫn và điện từ chỉ là hai trong số các lực cơ bản của Vũ trụ, bên cạnh mạnh và yếu hạt nhân. Có nhiều hạt hơn những hạt cấu tạo nguyên tử (quark lên và xuống, gluon và electron) và ánh sáng (photon), mà là cả một sở thú Mô Hình Chuẩn_ gồm các hạt cơ bản. Và Vũ trụ của chúng ta không tĩnh tại và vĩnh hằng như từng giả định lâu nay, mà đang giãn nở và nguội đi, ngụ ý rằng nó nóng hơn, đặc hơn và nhỏ hơn trong quá khứ.
Khi các bằng chứng ùn ùn kéo đến ủng hộ bức tranh Vụ nổ lớn nóng, và rồi sự mở rộng của lý thuyết ấy gọi là lạm phát Vũ trụ, chúng ta nhận ra rằng Vũ trụ của mình không hề bắt đầu từ một kỳ dị khai sinh không gian và thời gian khoảng 13,8 tỷ năm trước. Thay vào đó, Vụ nổ lớn nóng được thiết lập và đi trước bởi một pha sớm của không gian trống rỗng giãn nở nhanh và miệt mài, với các dao động lượng tử bị kéo dãn khắp không gian ấy để gieo vào Vũ trụ chúng ta những bất toàn sẽ lớn dần thành mạng lưới Vũ trụ vĩ đại mà ta quan sát ngày nay. Khi ta vặn ngược chiếc đồng hồ xa nhất theo khả năng hiểu biết hiện nay, đây là kỷ nguyên sớm nhất trong thời gian được chống lưng bởi bằng chứng khoa học quan sát được.

Các dao động lượng tử cố hữu của không gian, bị kéo dãn khắp Vũ trụ trong lạm phát Vũ trụ, đã sinh ra các dao động mật độ được in dấu trong bức xạ phông vi sóng Vũ trụ, và từ đó sinh ra các ngôi sao, thiên hà và các cấu trúc quy mô lớn khác trong Vũ trụ ngày nay. Đây là bức tranh tốt nhất ta có về cách toàn bộ Vũ trụ hành xử, nơi lạm phát đi trước và thiết lập Vụ nổ lớn. Đáng tiếc, chúng ta chỉ tiếp cận được thông tin nằm bên trong chân trời Vũ trụ của mình, vốn đều là một phần của cùng một phân vùng nơi lạm phát kết thúc khoảng 13,8 tỷ năm trước.
Vậy, còn câu hỏi về Chúa hay siêu nhiên thì sao? Xuyên suốt lịch sử, nhiều nhà tư tưởng – cả khoa học lẫn không khoa học – đã nhìn vào những điều mà khoa học chưa biết, bất cứ nơi nào có khoảng trống trong năng lực giải thích và (hoặc) dự đoán của chúng ta, hoặc vượt quá các giới hạn hiện tại của miền hiệu lực mà các lý thuyết đã biết thiết lập, và đã hỏi chính xác điều đó: làm sao anh biết không có sự can thiệp thần linh xảy ra ở đây?
– Làm sao anh biết sự sống trên Trái Đất nảy sinh tự nhiên từ vô sinh, và không có một tia lửa thần linh khởi phát nó?
– Làm sao anh biết con người xuất hiện hoàn toàn bởi các quá trình tiến hóa, và không có một bàn tay thiêng dẫn dắt tiến hóa hướng tới sự tồn tại của chúng ta?
– Làm sao anh biết không có một linh hồn bên trong cơ thể: điều gì đó vượt lên Vũ trụ vật chất của chúng ta?
– Và, đã nói vậy, làm sao anh biết Vũ trụ thực sự 13,8 tỷ năm tuổi và bắt đầu với một Vụ nổ lớn nóng, chứ không phải được thiết kế và tạo ra như hiện nay khoảng 6000 năm trước, với hồ sơ địa chất và hóa thạch đã sẵn có trong Trái Đất, theo một cách lấy con người làm trung tâm?
Sự thật là chúng ta _không biết những điều ấy theo cách bạn có thể chứng minh một sự kiện bằng toán học hay logic; chúng ta không. Điều chúng ta làm là tìm kiếm bất kỳ khoảng trống, lỗ hổng hay bất nhất nào trong các giải thích khoa học cho những gì ta quan sát và đo lường. Nếu không tìm thấy, không có nhu cầu hay lý do để nhét vào đó điều gì thừa thãi hay không cần thiết, nên ta không làm vậy. Nếu có tìm thấy khoảng trống, lỗ hổng hay bất nhất, ta điều tra chúng theo cách khoa học, tìm một cơ chế vật lý, bám rễ trong thực tại đo đếm được của chúng ta, để nỗ lực giải thích chúng.
Điều khoa học đang tìm kiếm
Vũ trụ như ta quan sát ngày nay khởi đầu với Vụ nổ lớn nóng: một trạng thái sớm nóng, đặc, đồng nhất, giãn nở với các điều kiện ban đầu cụ thể. Nhưng nếu muốn hiểu Vụ nổ lớn đến từ đâu, chúng ta không được giả định đó là khởi thủy tuyệt đối, và không được giả định rằng bất cứ điều gì ta chưa thể dự đoán đều không có một cơ chế để giải thích.
Đó là nơi chúng ta đang đứng ở các tiền tuyến hiện tại của khoa học, bao gồm cả khoa học về nguồn gốc Vũ trụ. Khi đối mặt với điều gì chưa thể giải thích, chúng ta đề xuất các giả thuyết mới, kiểm định được, có thể bác bỏ, lý tưởng là dẫn tới ba điều.
– Liệu bạn vẫn có thể giải thích tất cả những thành công sẵn có của lý thuyết trước đó bằng lý thuyết mới của mình không? (Nói cách khác, những gì chúng ta đã biết có loại trừ ý tưởng mới của bạn, khiến nó bị loại ngay từ đầu không?)
– Liệu ý tưởng mới thành công ở nơi lý thuyết hiện hành thất bại không? (Nói cách khác, nó có giải thích thành công khoảng trống trong tri thức hay giải thích hay dự đoán của ta không?)
– Và nó có đưa ra những dự đoán mới, kiểm định được và khác với dự đoán của lý thuyết hiện hành, để ta có thể (ít nhất về nguyên tắc) đi kiểm tra chúng không?
Đó là điều ít nhất khoa học tìm kiếm.

Đó là lý do chúng ta không chỉ nói mọi thứ hẳn đã sinh ra như thế này hay có lẽ là do Chúa ban cho hay nó dính dáng đến sự can thiệp thần linh. Không phải vì những giải thích ấy là bất khả; mà vì chúng không kiểm định khoa học được. Khoa học – bạn có thể không đồng ý, nhưng tôi vẫn nói – là con đường duy nhất chúng ta từng mở rộng tri thức của loài người suốt toàn bộ lịch sử nhân loại, và viện đến lý luận phi khoa học hay phi thực nghiệm về cơ bản là từ bỏ việc tự mình tìm ra đáp án về thực tại. Không phải bất khả rằng có một hiện diện thần linh trong Vũ trụ của chúng ta, mà đúng hơn, nếu nó tồn tại và nếu nó tác động tới thực tại của ta theo một cách đo đếm được, quan sát được, thì khoa học sẽ hé lộ nó, và khi ấy ta sẽ không còn xem nó là thiêng nữa.
Sự thật là chúng ta có thừa nhận _sự tồn tại của Chúa như một khả thể; chỉ là nó không được tính như một lời giải thích khoa học. Nếu Chúa hóa ra đúng là đáp án cho một hay nhiều câu hỏi về Vũ trụ của chúng ta, khoa học sẽ không bao giờ có thể hé lộ điều đó. Và như thế cũng ổn; mọi tri thức đều hữu hạn ở tầng cơ bản, dẫu trí tưởng tượng của chúng ta không như vậy. Những ai thực hành khoa học trong chúng tôi đơn giản chưa sẵn sàng để từ bỏ khả năng rằng, biết đâu rất có thể, các câu hỏi khoa học hiện nay quả thực có những đáp án có thể khai mở bằng cách chất vấn thực tại bằng mọi phương tiện mà trí tưởng tượng của chúng ta nghĩ ra được.

- khoa-hoc (563)
- vu-tru (97)
- vat-ly-thien-van (91)
- hat-cua-chua (1)
- chua-troi (10)
- chua (1)
- vu-no-lon (11)
- nguon-goc-vu-tru (1)
- lam-phat-vu-tru (4)
- khoi-dau-vu-tru (4)
- lich-su-vu-tru (1)
- thi-nghiem-khoa-hoc (1)
- co-che-vat-ly (1)
- ly-thuyet-vat-ly (1)
- nguon-goc-su-song (6)
- chu-nghia-huu-than (1)
- chu-nghia-vo-than (8)
- duc-tin-ton-giao (1)