Nhà thơ Xuân Diệu – Cái tôi tình yêu cuồng nhiệt
Xuân Diệu (1916 – 1985), tên đầy đủ là Ngô Xuân Diệu, là nhà thơ xuất sắc nhất của văn học Việt Nam hiện đại, được mệnh danh là Ông hoàng thơ tình.
| 23 phút đọc | lượt xem.
Xuân Diệu (1916 – 1985), tên đầy đủ là Ngô Xuân Diệu, là một trong những nhà thơ tiêu biểu và xuất sắc nhất của văn học Việt Nam hiện đại, được mệnh danh là Ông hoàng thơ tình.
Tiểu sử tác giả
Xuân Diệu (1916 – 1985), tên đầy đủ là Ngô Xuân Diệu, là một trong những nhà thơ tiêu biểu và xuất sắc nhất của văn học Việt Nam hiện đại, được mệnh danh là Ông hoàng thơ tình. Ông được sinh ra tại quê gốc Can Lộc (Hà Tĩnh), sinh trưởng tại Bình Định và lớn lên và trưởng thành tại mảnh đất Gò Bồi – Tuy Phước.
Trong suốt cuộc đời sáng tác, Xuân Diệu đã để lại một kho tàng thơ ca vô cùng đồ sộ với những bài thơ tình da diết, tràn đầy cảm xúc, khẳng định vị thế không thể thay thế trong nền thi ca Việt Nam.
Tuổi thơ và quá trình học tập
Xuân Diệu tuy không phải quê gốc ở Bình Định nhưng lại lớn lên và trưởng thành ở mảnh đất này. Việc sinh ra và lớn lên tại hai vùng đất khác nhau đã tạo nên một sự kết hợp đặc biệt trong tính cách và phong cách sáng tác của ông.
Có lẽ sự kết hợp hôn nhân, giao lưu văn hóa này đã tạo nên một Xuân Diệu rất tình của xứ Nghệ và rất thơ của Gò Bồi. Trong gia đình, Xuân Diệu còn có một người em trai cùng bố, cùng mẹ là nhà văn Tịnh Hà, nhưng ông đi biền biệt và mất từ lâu.
Sau đó ông đến Quy Nhơn học, ra Huế học và tốt nghiệp tú tài. Quá trình học tập của Xuân Diệu diễn ra trong bối cảnh xã hội Việt Nam chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của văn hóa phương Tây và phong trào Thơ Mới đang phát triển. Việc tiếp cận với nền giáo dục hiện đại và văn học phương Tây từ sớm đã giúp ông hình thành nên phong cách thơ độc đáo, kết hợp giữa tinh thần phương Đông và kỹ thuật phương Tây.
Thời gian học tập tại các thành phố lớn như Quy Nhơn và Huế đã mở ra cho Xuân Diệu những chân trời văn học mới mẻ. Ông đã tiếp xúc với nhiều tác phẩm văn học kinh điển, đặc biệt là thơ ca phương Tây, điều này sau này ảnh hưởng sâu sắc đến phong cách sáng tác của ông.
Việc tốt nghiệp tú tài trong bối cảnh ấy không chỉ đánh dấu sự hoàn thành quá trình học tập chính quy mà còn là bước đệm quan trọng cho sự nghiệp văn học sau này của ông.
Thời kỳ hoạt động văn học và sự nghiệp
Năm 1937 ra Hà Nội học Luật và viết báo, trở thành cây bút chủ lực của Tự lực văn đoàn. Đây chính là bước ngoặt quan trọng trong đời ông khi chính thức bước chân vào làng văn học. Nhà thơ là cây bút xuất sắc của phong trào thơ mới.
Phong cách viết thơ trữ tình, Xuân Diệu là nhà thơ của tình yêu. Sự tham gia vào Tự lực văn đoàn không chỉ đánh dấu sự khởi đầu cho sự nghiệp viết văn mà còn giúp ông tìm được con đường riêng trong việc phát triển thơ ca Việt Nam hiện đại.
Trong thời kỳ này, Xuân Diệu đã cho ra đời những tác phẩm đầu tiên và nhanh chóng trở thành một trong những gương mặt tiêu biểu của phong trào Thơ Mới. Xuân Diệu có thể viết những bài thơ lộng lẫy, ngân vang như Nguyệt cầm, lại có thể viết những bài thơ giản dị như lời ăn tiếng nói hằng ngày.
Khả năng đa dạng hóa phong cách này đã giúp ông tiếp cận được với nhiều tầng lớp độc giả khác nhau. Ông đã thành công trong việc kết hợp giữa kỹ thuật thơ phương Tây với tinh thần và nội dung Việt Nam, tạo nên những tác phẩm vừa hiện đại vừa mang đậm bản sắc dân tộc.

Suốt quá trình hoạt động văn học, Xuân Diệu đã viết tổng cộng khoảng trên 5.000 trang sách có giá trị. Ông không chỉ là nhà thơ mà còn là nhà phê bình văn học, dịch giả và nhà nghiên cứu văn học. Ông là tác giả của 14 tập thơ, 15 tập văn xuôi, tiểu luận và phê bình, 4 tập sách dịch, thể hiện sự đa dạng và phong phú trong hoạt động sáng tác.
Tác phẩm tiêu biểu
Kho tàng tác phẩm của Xuân Diệu không chỉ đa dạng về thể loại mà còn phong phú về nội dung và phong cách. Với trái tim yêu đời, yêu người tha thiết. Ông đã để lại cho hậu thế 450 bài thơ, chưa kể những di cảo chưa được công bố.
Cùng với những tác phẩm phê bình văn học, truyện ngắn, bút ký. Những tác phẩm này không chỉ thể hiện tài năng sáng tác xuất chúng mà còn phản ánh sự phong phú trong tư tưởng và cảm xúc của một nhà thơ lớn.
Các tập thơ nổi tiếng
Trong sự nghiệp sáng tác của mình, ông đã cho ra đời nhiều tác phẩm hay, ấn tượng có thể kể đến như Thơ thơ (1938, 1939, 1968, 1970), Gửi hương cho gió (1945, 1967), Riêng chung (1960), Một khối hồng (1964), Tôi giàu đôi mắt (1970).
Trong số này, tập Thơ thơ được coi là tác phẩm đầu tay đánh dấu sự xuất hiện của một tài năng thơ ca đặc biệt. Tập thơ này chứa đựng những bài thơ tình đầy cảm xúc, thể hiện rõ phong cách riêng biệt của Xuân Diệu trong việc diễn đạt tình yêu và nỗi niềm con người.
Gửi hương cho gió là một trong những tập thơ được đánh giá cao nhất của Xuân Diệu, thể hiện sự trưởng thành trong nghệ thuật thơ ca. Xuân Diệu có tập thơ mang tựa đề Gửi hương cho gió, thì những câu thơ như vừa trích chính là mùi hương của thơ ông hoa bưởi thơm rồi, đêm đã khuya, nó nhẹ nhàng mà khiến ta day dứt, nó đọng lại đâu đó trong ta khi gió đã ngừng và những ồn ào đã bặt. Những tác phẩm trong tập này không chỉ mang tính chất trữ tình cao mà còn thể hiện sự tinh tế trong nghệ thuật ngôn từ và hình ảnh thơ.
Trong sự nghiệp thơ của ông có tới hơn 300 bài được ông xuất bản trong nhiều tập thơ khác nhau, nổi bật như: Thơ thơ (1938), Gửi hương cho gió (1945), Ngọn quốc kỳ (1945), Dưới sao vàng (1949), Ngôi sao (1955). Những tập thơ này đánh dấu các giai đoạn khác nhau trong sự nghiệp sáng tác, từ thơ tình trai trẻ đầy đam mê đến những suy tư sâu sắc về đời sống và xã hội.
Những bài thơ kinh điển
Các bài thơ như Yêu, Dại khờ, Vội vàng Gọi điện, Vì sao, Đây mùa thu tới, Chiều, Ấm áp xuân, Biển, Tương tư chiều, và Tình thứ nhất của ông đều thể hiện sự đam mê cuộc sống và tình yêu đến mức cuồng. Những bài thơ này không chỉ được giới chuyên môn đánh giá cao mà còn được độc giả yêu thích và thuộc lòng qua nhiều thế hệ. Mỗi bài thơ đều mang một màu sắc riêng, từ sự cuồng nhiệt trong tình yêu đến những tâm trạng tinh tế của con người trước thiên nhiên và đời sống.
Bài thơ Biển được coi là một trong những kiệt tác của Xuân Diệu, thể hiện khả năng miêu tả thiên nhiên và tâm trạng con người một cách tuyệt vời. Nói ra có thể nhiều người không tin: Tôi chính là đối tượng và là nguồn cảm hứng cho Xuân Diệu viết bài thơ nổi tiếng ấy, theo lời kể của nhà thơ Hoàng Cát. Điều này cho thấy những bài thơ của Xuân Diệu không chỉ là sản phẩm của trí tưởng tượng mà còn có nguồn gốc từ những trải nghiệm thực tế và những mối quan hệ cụ thể trong cuộc đời ông.
Các tác phẩm văn xuôi của Xuân Diệu cũng đáng chú ý, bao gồm truyện ngắn, tiểu luận phê bình và bút ký. Ngoài hai tập thơ nổi tiếng Gửi hương cho gió và Thơ thơ được giới văn học đánh giá cao, nhiều tác phẩm khác của ông cũng được xếp vào hàng danh tác của văn học Việt Nam.
Những tác phẩm tiêu biểu bao gồm truyện ngắn Phấn thông. Những tác phẩm này thể hiện khả năng đa dạng trong sáng tác của Xuân Diệu, không chỉ giới hạn trong thơ ca mà còn mở rộng sang các thể loại văn xuôi khác.
Phong cách nghệ thuật độc đáo
Xuân Diệu là người suốt đời khao khát, suốt đời thiếu hụt. Ông đói đời sống, cái đời sống cụ thể, tươi mởn, tràn trề, sinh động kia, ông vội vàng vì bị cái cảm thức trôi qua đe dọa. Chính từ cái chênh vênh giữa tồn tại và hư mất ấy, mà ông làm thơ.
Đây chính là đặc điểm cốt lõi trong thi pháp của Xuân Diệu – sự thèm khát đời sống và nỗi sợ mất mát đã tạo nên những bài thơ đầy cảm xúc và sức sống. Thèm đời sống là cái thèm đặc trưng trong thơ Xuân Diệu. Có lẽ nên đọc ông bắt đầu từ đó. Sự thèm muốn này không chỉ thể hiện trong nội dung mà còn trong cách sử dụng ngôn từ và hình ảnh thơ.
Sức ảnh hưởng của nhà văn
Xuân Diệu không chỉ là một nhà thơ tài năng mà còn là một nhân vật có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của văn học Việt Nam hiện đại. Xuân Diệu là một trong những nhà thơ tiêu biểu của làng thơ hiện đại Việt Nam.
Cho đến nay chưa một ai có thể vượt qua Xuân Diệu trong lĩnh vực thơ tình. Ảnh hưởng của ông không chỉ thể hiện trong tác phẩm mà còn trong việc định hướng và truyền cảm hứng cho các thế hệ nhà thơ sau này.
Ảnh hưởng đến phong trào Thơ Mới
Nhà thơ là cây bút xuất sắc của phong trào thơ mới, Xuân Diệu đã đóng góp quan trọng vào việc xây dựng và phát triển phong trào văn học tiến bộ này. Ông là một trong những người tiên phong trong việc áp dụng những kỹ thuật thơ phương Tây vào thơ ca Việt Nam, tạo nên sự đổi mới căn bản trong cách viết thơ.
Xuân Diệu, ngay từ thời Thơ Mới, đã có ý thức du nhập kỹ thuật thơ phương Tây, đến nỗi nhiều người kêu ông làm thơ Tây quá. Tuy nhiên, điều đáng chú ý là ông không chỉ đơn thuần áp dụng kỹ thuật mà còn biết kết hợp một cách hài hòa với tinh thần văn học dân tộc.
Chính hồn Việt, hồn phương Đông, ngất ngây trong đạm bạc, giàu có trong tiết giản đã khiến thơ Xuân Diệu được người Việt yêu thích. Sự kết hợp này đã tạo nên một phong cách thơ độc đáo, vừa hiện đại vừa mang đậm bản sắc Việt Nam. Xuân Diệu đã chứng minh rằng việc tiếp thu những yếu tố văn học phương Tây không có nghĩa là từ bỏ truyền thống dân tộc, mà ngược lại có thể làm cho truyền thống ấy trở nên phong phú và hiện đại hơn.

Thông qua các tác phẩm của mình, Xuân Diệu đã mở ra một hướng đi mới cho thơ ca Việt Nam, đặc biệt trong lĩnh vực thơ tình. Ông là một trong những nhà thơ Việt có ý thức làm thơ như nói từ khá sớm, điều này đã ảnh hưởng sâu sắc đến cách viết thơ của nhiều nhà thơ sau này. Phong cách thơ như nói này không chỉ làm cho thơ trở nên gần gũi với độc giả mà còn mở ra những khả năng biểu đạt mới trong nghệ thuật thơ ca.
Tác động đến các thế hệ nhà văn sau
Ảnh hưởng của Xuân Diệu đã lan tỏa đến nhiều thế hệ nhà văn, nhà thơ sau này. Dù cơ hội gặp gỡ ít, nhưng tôi vẫn được ảnh hưởng đấy. Thứ nhất là, tình cảm yêu thương gia đình, họ tộc, quê hương; thứ hai là thái độ đam mê sống, lăn xả dâng hiến.
Làm được gì đó là làm, gắng làm tốt, chu toàn; thứ ba, là căn cơ tiết kiệm của người xứ Nghệ, theo chia sẻ của nhà thơ Ngô Đức Hành – người cháu họ của Xuân Diệu. Điều này cho thấy ảnh hưởng của Xuân Diệu không chỉ thể hiện trong mặt nghệ thuật mà còn trong cách sống, thái độ đối với cuộc đời và với nghề văn.
Nhiều nhà thơ trẻ đã được Xuân Diệu trực tiếp hướng dẫn và khuyến khích trong việc sáng tác. Xuân Diệu viết rằng ông rất thích chùm thơ dự thi của tôi. Ông đã trao đổi với Nhà thơ Vũ Quần Phương và thống nhất cho điểm cao chùm thơ ấy. Cuối thư, Xuân Diệu yêu cầu tôi gửi cho ông một tập bản thảo mới, ông sẽ đọc kỹ và góp ý. Thái độ này của Xuân Diệu đối với các tác giả trẻ đã thể hiện tinh thần trách nhiệm của một nhà văn lớn đối với sự phát triển của văn học dân tộc.
Sự ảnh hưởng của Xuân Diệu còn thể hiện trong việc định hình thẩm mỹ thơ ca Việt Nam hiện đại. Ông đã chứng minh rằng thơ tình không chỉ là việc diễn đạt cảm xúc cá nhân mà còn có thể mang tính nghệ thuật cao và có giá trị phổ quát. Và sự chân thành đến tận cùng, đến không sợ những câu chữ có thể bị coi là ngây ngô, đã khiến thơ Xuân Diệu đặc biệt gần gũi với đời thường. Sự chân thành này đã trở thành một trong những tiêu chí quan trọng để đánh giá chất lượng của thơ ca.
Đóng góp vào việc hiện đại hóa văn học Việt Nam
Là người có kiến văn rất rộng, và rất nhạy cảm, Xuân Diệu đã cùng lúc cho thơ mình chạy trên hai đường băng – thơ và đời – ấy. Không phải ai cũng phối hợp được sức đọc và sức cảm để có những tác phẩm đầy cá tính.
Đây chính là đóng góp quan trọng nhất của Xuân Diệu trong việc hiện đại hóa văn học Việt Nam. Ông đã thành công trong việc kết hợp giữa tính nghệ thuật cao và tính đại chúng, giữa truyền thống và hiện đại, giữa cảm xúc cá nhân và giá trị phổ quát.
Xuân Diệu cũng đã có những đóng góp quan trọng trong lĩnh vực phê bình và nghiên cứu văn học. Những bài viết phê bình của ông không chỉ có giá trị trong việc đánh giá các tác phẩm đương thời mà còn đưa ra những định hướng lý thuyết cho sự phát triển của văn học.
Thông qua hoạt động phê bình và nghiên cứu, ông đã góp phần xây dựng nền tảng lý thuyết cho văn học Việt Nam hiện đại, giúp các nhà văn trẻ có những định hướng rõ ràng hơn trong quá trình sáng tác.
Đánh giá trên văn đàn và trong lòng độc giả
Xuân Diệu là một trong số ít những nhà thơ Việt Nam được cả giới chuyên môn lẫn độc giả đại chúng yêu mến và tôn vinh. Ông đã vinh dự được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Độc lập hạng Nhất (1985) và Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật (đợt I, năm 1996). Những vinh danh này không chỉ ghi nhận tài năng cá nhân mà còn khẳng định giá trị to lớn của ông đối với nền văn học dân tộc.
Đánh giá của giới chuyên môn
Thơ tình của Xuân Diệu, đặc biệt là những bài được tuyển tập trong Thơ thơ (1938) và Gửi hương cho gió (1945), cho đến nay vẫn được trân trọng, với Xuân Diệu được ca ngợi là ông hoàng thơ tình theo đánh giá của các chuyên trang tiếng Anh về văn học Việt Nam. Điều này cho thấy tác phẩm của Xuân Diệu không chỉ được công nhận trong nước mà còn được quốc tế đánh giá cao. Các tác phẩm thơ tình của ông đã vượt qua rào cản ngôn ngữ và văn hóa để trở thành những giá trị phổ quát của nhân loại.

Trong giới nghiên cứu văn học, Xuân Diệu được coi là một trong những nhà thơ có đóng góp quan trọng nhất cho sự phát triển của thơ ca Việt Nam hiện đại. Xuân Diệu là cây bút có sức sáng tạo mãnh liệt, dồi dào, bền bỉ, có khả năng duy trì chất lượng sáng tác ở mức cao trong suốt quá trình hoạt động văn học. Các nhà phê bình đã đánh giá cao khả năng đổi mới và sáng tạo của ông, đặc biệt trong việc áp dụng những kỹ thuật thơ hiện đại vào thơ ca Việt Nam.
Trong bối cảnh văn học Việt Nam những năm 1960 – 1970, dù có những bài thơ được coi là dễ dãi, nhưng Xuân Diệu vẫn thể hiện được sự tinh tế trong nghệ thuật thơ ca.
Ngày trước, trong một chủ trương văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa đầy tính quan phương và bất trắc, Xuân Diệu lại biết tìm cho thơ mình một lối đi riêng mà quan chức văn nghệ thì khen ông làm thơ đúng đường lối, còn dân tình đọc thơ thì thấy gần gũi, còn bây giờ, giữa sự cởi mở ta lại nhận ra thơ ấy đích thực là… thơ hay. Điều này cho thấy tài năng và sự nhạy bén của Xuân Diệu trong việc dung hòa giữa yêu cầu thời đại và giá trị nghệ thuật.
Các nhà nghiên cứu văn học đã chỉ ra rằng Xuân Diệu là nhà thơ có khả năng kết hợp tốt nhất giữa kỹ thuật thơ phương Tây và nội dung, tinh thần Việt Nam. Thực ra, nếu chỉ đơn thuần dùng kỹ thuật thơ phương Tây, dù là kỹ thuật tân kỳ, Xuân Diệu cũng không thể chinh phục được người đọc như ông đã chinh phục. Sự thành công của ông nằm ở chỗ biết cách Việt hóa những kỹ thuật ấy, làm cho chúng phù hợp với tâm hồn và ngôn ngữ Việt Nam.
Vị thế trong lòng độc giả
Trong lòng độc giả Việt Nam, Xuân Diệu được yêu mến không chỉ vì tài năng mà còn vì sự chân thành, giản dị trong cuộc sống và trong thơ. Hằng năm cứ vào 18.12 là ngày giỗ ông, nhiều người trên khắp nơi đổ về thắp hương tưởng niệm. Để tưởng nhớ một cây đại thụ của nền thi ca Việt Nam. Điều này cho thấy tình cảm sâu sắc mà nhân dân dành cho ông, không chỉ như một nhà thơ tài năng mà còn như một con người đáng kính và yêu mến.

Thơ Xuân Diệu có sức hút đặc biệt đối với các thế hệ độc giả khác nhau. Từ những người đồng thời đại với ông cho đến các thế hệ trẻ ngày nay, thơ Xuân Diệu vẫn giữ được sức sống và tính thời sự. Những câu thơ của ông như Em đi để tấm lòng son mãi / Như ánh đèn chong, như ngôi sao hay Biển động không ngừng trong lòng tôi đã trở thành những câu thơ kinh điển, được nhiều người thuộc lòng và trích dẫn trong đời sống hàng ngày.
Sự gần gũi của thơ Xuân Diệu với độc giả còn thể hiện ở việc ông biết cách diễn đạt những cảm xúc phức tạp bằng ngôn từ giản dị nhưng sâu sắc. Cay sống mũi như là ăn rau cải (Lệ) – một so sánh tưởng chừng bình dân nhưng lại diễn tả được cảm giác khóc một cách chân thực và sinh động đến mức người đọc có thể cảm nhận được ngay lập tức. Chính khả năng biến những trải nghiệm đời thường thành thơ ca tuyệt vời này đã làm cho Xuân Diệu trở thành một trong những nhà thơ được yêu mến nhất.
Tranh luận và định hướng nghiên cứu
Mặc dù được đánh giá cao, cuộc đời và tác phẩm của Xuân Diệu cũng không tránh khỏi những tranh luận. Đời tư Xuân Diệu, đến nay còn nhiều tranh luận, đặc biệt là những câu chuyện xung quanh đời sống tình cảm của ông. Có người đồn đoán Xuân Diệu đồng tính, và có tình cảm đặc biệt với Huy Cận, theo như những gì được đề cập trong các tài liệu. Tuy nhiên, những tranh luận này không làm giảm đi giá trị nghệ thuật của các tác phẩm.
Nhà văn Tô Hoài trong Cát bụi chân ai, xuất bản năm 1993 tại Hà Nội, đã có những chia sẻ về mối quan hệ giữa ông với Xuân Diệu, tạo nên nhiều suy đoán về đời tư của nhà thơ.
Tuy nhiên, như nhà thơ Ngô Đức Hành – người cháu họ của Xuân Diệu đã chia sẻ: Sau khi ông, kể cả Huy Cận mất thì mọi người mới bắt đầu ‘dệt gấm thêu hoa’ về chuyện đồng tính của Xuân Diệu. Xuân Diệu và Huy Cận có sống lại được đâu để thanh minh cho quan hệ giữa hai người?
Những tranh luận này đã mở ra những hướng nghiên cứu mới về Xuân Diệu, không chỉ tập trung vào tác phẩm mà còn về con người và cuộc đời ông. Điều quan trọng là các nhà nghiên cứu cần tiếp cận một cách khách quan và khoa học, tránh việc phán đoán hay đưa ra những kết luận không có căn cứ.
Như Tô Hoài đã viết: Ai yêu thơ Xuân Diệu, hiểu được thơ tình não nùng của Xuân Diệu, tình trai và tình gái không không phân biệt trai gái, phải thấu nỗi niềm và duyên nợ của nhà thơ, suốt đời nhớ thương và chờ đợi. Không bao giờ sầu não thất vọng, không bao giờ già, mãi mãi ban đầu…
Kế thừa và phát huy giá trị
Sau ngày Xuân Diệu qua đời, tại Thủ đô Hà Nội và một số thành phố đã có những đường phố được mang tên ông. Điều này thể hiện sự ghi nhận của xã hội đối với những đóng góp to lớn của ông cho nền văn học dân tộc.
Nhà lưu niệm Xuân Diệu tọa lạc tại thôn Tùng Giản, Phước Hòa, Tuy Phước đã được xây dựng trên nền nhà ngoại của ông thuộc trung tâm của Vạn Gò Bồi xưa, trở thành nơi tưởng nhớ và nghiên cứu về cuộc đời, sự nghiệp của nhà thơ.
Những hiện vật, tư liệu liên quan đến nhà thơ Xuân Diệu đều được bài trí, trưng bày một cách đầy đủ và cẩn thận. Du khách viếng thăm sẽ có cái nhìn toàn diện hơn về thân thế, cuộc đời, sự nghiệp của nhà thơ. Việc bảo tồn và phát huy di sản văn học của Xuân Diệu không chỉ có ý nghĩa giáo dục mà còn góp phần định hướng cho sự phát triển của văn học đương đại.
Hiện di cảo thơ của Xuân Diệu có trong tay anh còn khoảng 500 bài chưa được công bố, theo chia sẻ của Hà Vũ (con trai nhà thơ Huy Cận).
Điều này cho thấy kho tàng tác phẩm của Xuân Diệu còn nhiều tiềm năng để khai thác và nghiên cứu, mở ra những khả năng mới trong việc hiểu rõ hơn về tài năng và con người của nhà thơ này. Việc công bố và nghiên cứu những di cảo này sẽ là nhiệm vụ quan trọng của các thế hệ nghiên cứu văn học trong tương lai.

Tóm lại, Xuân Diệu là một hiện tượng đặc biệt trong văn học Việt Nam, một nhà thơ có tài năng xuất chúng và ảnh hưởng sâu rộng. Dù cuộc đời cá nhân của ông có những tranh luận, nhưng không thể phủ nhận giá trị to lớn của tác phẩm và sự đóng góp quan trọng của ông cho sự phát triển của thơ ca Việt Nam hiện đại. Ông hoàng thơ tình Xuân Diệu sẽ mãi được nhớ đến như một cây đại thụ trong nền thi ca dân tộc, người đã để lại những giá trị vĩnh hằng cho văn học và văn hóa Việt Nam.
