Diễn từ Nobel Văn học 2004 – Bị gạt ra ngoài lề, Elfriede Jelinek
Diễn từ Nobel văn học 2004 của Elfriede Jelinek không chỉ là bài phát biểu tri ân của tác giả khi nhận giải thưởng danh giá nhất trong làng văn chương thế giới.
| 50 phút đọc | lượt xem.
Diễn từ Nobel văn học không chỉ là bài phát biểu tri ân của những tác giả vĩ đại khi nhận giải thưởng danh giá nhất trong làng văn chương thế giới. Đó còn là những tuyên ngôn về nghệ thuật, về tầm nhìn triết học, về vai trò của văn chương trong đời sống tinh thần nhân loại. Qua từng diễn từ Nobel văn học, chúng ta không chỉ hiểu được con người của nhà văn mà còn nhận ra được mạch nguồn sáng tạo, nhận thức thời đại và trách nhiệm của người cầm bút với hiện thực xã hội.
Dưới đây là bản dịch Diễn từ Nobel Văn học 2004(https://nhavan.vn/van/dien-tu-van-hoc-2004), chuyển ngữ trực tiếp từ nguyên văn lưu trữ tại Thư viện Nobel Prize. Ban biên tập ưu tiên sử dụng bản gốc của tác giả làm cơ sở dịch thuật, trong trường hợp văn bản được viết bằng ngôn ngữ phi Latin (như tiếng Nhật, tiếng Hàn…) thì sử dụng bản Diễn từ Nobel Văn học tiếng Anh chính thức do Nobel Prize công bố.
Nhà văn Áo Elfriede Jelinek và nghệ thuật phê phán quyền lực nam tính
Elfriede Jelinek (1946) là nhà tiểu thuyết, nhà viết kịch và nhà thơ người Áo, một trong những giọng nói phê phán mạnh mẽ nhất trong văn học Đức ngữ đương đại. Bà sinh ngày 20 tháng 10 năm 1946 tại Mürzzuschlag, Styria, Áo, trong một gia đình có xuất thân phức tạp: cha là nhà hóa học người Do Thái Tiệp Khắc và mẹ là người Áo Công giáo. Jelinek lớn lên trong bóng tối của Chiến tranh Thế giới thứ hai và di sản của chủ nghĩa Nazi ở Áo, điều này đã ảnh hưởng sâu sắc đến quan điểm phê phán của bà về xã hội Áo và chủ nghĩa dân tộc. Năm 2004, Elfriede Jelinek trở thành phụ nữ thứ mười được trao giải Nobel văn học, vì dòng chảy âm nhạc của giọng nói và phản giọng nói trong tiểu thuyết và kịch bộc lộ với nhiệt tình phi thường sự vô lý của những định kiến xã hội và sức mạnh khuất phục của chúng, công nhận đóng góp táo bạo của bà trong việc vạch trần bất công xã hội và áp bức giới.
Từ Vienna đến trung tâm tranh cãi văn học
Elfriede Jelinek sinh ngày 20 tháng 10 năm 1946 tại Mürzzuschlag, một thị trấn nhỏ ở Áo, không lâu sau khi Thế chiến thứ hai kết thúc. Xuất thân của cô phức tạp: cha là người Do Thái gốc Czech làm hóa học, mẹ là người Áo gốc Rumani. Thời thơ ấu của Jelinek bị chi phối bởi người mẹ chuyên quyền, buộc cô phải theo học âm nhạc và ballet một cách khắc khổ với tham vọng biến cô thành nghệ sĩ nổi tiếng. Jelinek đã học nhạc tại Nhạc viện Vienna, trở thành nghệ sĩ organ và piano xuất sắc, nhưng áp lực quá lớn dẫn đến căng thẳng thần kinh nghiêm trọng vào cuối tuổi thiếu niên. Cô cũng học sân khấu và sử nghệ thuật tại Đại học Vienna nhưng không hoàn thành bằng cấp. Kinh nghiệm thời thơ ấu này – sự áp đặt của mẹ, căng thẳng về thành tích, và cảm giác bị giam cầm – đã trở thành chủ đề xuyên suốt trong sáng tạo của cô.
Jelinek bắt đầu viết từ rất sớm, xuất bản tập thơ đầu tiên Lisas Schatten (Bóng của Lisa) năm 1967 khi mới 21 tuổi. Thập niên 1970, cô tham gia Đảng Cộng sản Áo, phản ánh lập trường chính trị cánh tả triệt để của cô, mặc dù sau này cô rời đảng vào năm 1991 do thất vọng. Những tiểu thuyết đầu tiên như Wir sind Lockvögel, Baby! (Chúng ta là mồi nhử, em yêu!, 1970) và Michael. Ein Jugendbuch für die Infantilgesellschaft (Michael. Sách thiếu nhi cho xã hội ấu trĩ, 1972) đã thể hiện phong cách châm biếm và phê phán văn hóa tiêu dùng. Tuy nhiên, bước ngoặt thực sự đến với Die Liebhaberinnen (Những người tình, 1975), tiểu thuyết phân tích tàn nhẫn cuộc sống của phụ nữ trong xã hội patriarchy, viết bằng phong cách montage độc đáo.
Tác phẩm gây tranh cãi nhất và nổi tiếng nhất của Jelinek là Die Klavierspielerin (Nghệ sĩ piano, 1983), câu chuyện về Erika Kohut, một giáo viên piano 40 tuổi sống với mẹ chuyên quyền và có những tưởng tượng tình dục bạo lực. Tiểu thuyết khám phá tâm lý bị bóp méo bởi áp bức gia trưởng, kết nối giữa bạo lực tình dục và quyền lực xã hội, với ngôn ngữ khắc nghiệt và hình ảnh gây sốc. Tác phẩm này đã được đạo diễn Michael Haneke chuyển thể thành phim năm 2001, giành giải Cành cọ vàng tại Cannes. Những tiểu thuyết tiếp theo như Lust (Dục vọng, 1989) và Gier (Tham lam, 2000) tiếp tục khám phá bạo lực tình dục, tư bản và gia trưởng với ngôn ngữ càng ngày càng thử nghiệm và khiêu khích hơn. Jelinek cũng viết nhiều vở kịch, trong đó Burgtheater (1985) và Raststätte (Trạm nghỉ, 1994) công kích trực diện quá khứ phát xít của Áo mà xã hội Áo muốn lãng quên.
Sau khi nhận giải Nobel năm 2004, Jelinek trở thành mục tiêu của làn sóng chỉ trích ác ý từ giới truyền thông và chính trị cánh hữu Áo. Cô bị tấn công vì phong cách viết khiêu dâm, vì lập trường chính trị cánh tả, và vì phản bội Áo. Các mối đe dọa và tấn công cá nhân trở nên nghiêm trọng đến mức Jelinek phát triển lo âu xã hội nghiêm trọng và từ chối xuất hiện công khai, kể cả tại lễ trao giải Nobel ở Stockholm – cô gửi một video thông điệp thay vì tham dự trực tiếp. Từ đó đến nay, cô sống ẩn dật tại Vienna và Munich, tiếp tục viết nhưng hiếm khi xuất hiện. Cô duy trì một trang web cá nhân nơi đăng tải các văn bản chính trị và văn học mới, trở thành một trong số ít nhà văn Nobel còn sống tích cực sử dụng internet như phương tiện xuất bản trực tiếp.
Phê phán bạo lực và áp bức
Viện Hàn lâm Thụy Điển trao giải Nobel văn học 2004 cho Elfriede Jelinek với lời tuyên dương vì dòng chảy âm nhạc của tiếng nói và phản tiếng nói trong tiểu thuyết và vở kịch, với nhiệt huyết phi thường bộc lộ sự vô lý của các khuôn mẫu xã hội và sức mạnh chinh phục của chúng. Cụm từ tiếng nói và phản tiếng nói ám chỉ kỹ thuật đặc trưng của Jelinek: cô sử dụng montage các khẩu hiệu quảng cáo, câu nói sáo rỗng, ngôn ngữ chính trị và cliché văn hóa đại chúng, ghép chúng lại theo cách làm lộ ra sự rỗng tuếch và bạo lực ẩn sau. Ngôn ngữ của Jelinek không bao giờ trong suốt hay tự nhiên mà luôn là cấu trúc được làm lộ ra, buộc người đọc nhận thức về cách ngôn ngữ tạo hình thực tại và duy trì quyền lực.
Die Klavierspielerin là tác phẩm tiêu biểu nhất của Jelinek, khám phá mối liên hệ giữa gia trưởng, bạo lực tình dục và nghệ thuật. Erika Kohut, nhân vật chính, là một nghệ sĩ piano tài năng nhưng bị bóp méo tâm lý bởi người mẹ chuyên quyền suốt bốn mươi năm. Erika không có cuộc sống riêng, không có bạn bè, không có tình yêu – cô chỉ có âm nhạc và mẹ. Khi cô phát triển mối quan hệ với Walter Klemmer, một học sinh trẻ, thay vì tình yêu lãng mạn, mối quan hệ biến thành một trò chơi quyền lực và bạo lực. Erika viết một lá thư chi tiết yêu cầu Klemmer đánh đập và hạ nhục cô, nhưng khi anh thực sự làm thế, cô nhận ra mình không thể kiểm soát tình huống. Tiểu thuyết kết thúc với Erika tự đâm mình nhưng không chết, tiếp tục sống trong sự thất bại và đau khổ. Jelinek không miêu tả Erika như nạn nhân thuần túy mà như sản phẩm phức tạp của hệ thống patriarchy – một phụ nữ đã nội tâm hóa bạo lực đến mức không còn biết cách yêu hay được yêu bình thường.
Tiểu thuyết Lust đi xa hơn trong việc khám phá bạo lực tình dục, kể về Gerti, một phụ nữ bị chồng là Hermann cưỡng hiếp và lạm dụng thường xuyên trong ngôi nhà ở vùng núi Alps. Hermann là giám đốc nhà máy giấy, đại diện cho giai cấp tư sản Áo, xem vợ như tài sản và công cụ thỏa mãn tình dục. Jelinek mô tả các cảnh tình dục bằng ngôn ngữ cực kỳ thô tục, lặp đi lặp lại, phi nhân hóa, khiến người đọc khó chịu và bị xúc phạm – đó chính là mục đích. Cô muốn người đọc cảm nhận bạo lực, không thể lãng mạn hóa hay hưởng thụ nó như khiêu dâm. Tiểu thuyết gây tranh cãi lớn, bị nhiều người coi là khiêu dâm và ghê tởm, nhưng những người ủng hộ cho rằng đây là phê phán triệt để nhất về patriarchy và bóc lột tình dục trong văn học đương đại. Jelinek lập luận rằng tình yêu lãng mạn mà văn hóa đại chúng tôn vinh chỉ là mặt nạ che giấu quan hệ quyền lực bất bình đẳng giữa nam và nữ.
Các vở kịch của Jelinek cũng gây sốc không kém. Burgtheater tấn công trực diện một trong những nhà hát danh tiếng nhất Áo, nơi nhiều diễn viên đã hợp tác với chế độ Quốc xã nhưng sau chiến tranh tiếp tục sự nghiệp như không có gì xảy ra. Vở kịch Raststätte khám phá bạo lực di cư và chủ nghĩa dân tộc cực hữu thông qua câu chuyện một gia đình người nước ngoài bị tấn công. Macht nichts (Không sao, 1999) xử lý cuộc chiến Kosovo và chủ nghĩa dân tộc Serbia. Kỹ thuật kịch bản của Jelinek rất độc đáo – cô loại bỏ nhân vật truyền thống, hành động, và đối thoại tự nhiên, thay vào đó là các khối văn bản dài, montage ngôn ngữ, và chorus như trong bi kịch Hy Lạp cổ đại. Các vở kịch của cô thách thức diễn viên và đạo diễn, yêu cầu họ tìm cách sân khấu hóa văn bản không có cấu trúc kịch truyền thống, thường dẫn đến các dàn dựng thử nghiệm đầy sức mạnh.
Sức ảnh hưởng của Elfriede Jelinek trên văn đàn thế giới và tranh cãi về phong cách
Elfriede Jelinek là một trong những nhà văn gây tranh cãi nhất từng đoạt giải Nobel văn học. Ngay trong Viện Hàn lâm Thụy Điển, quyết định trao giải cho cô đã gây ra cuộc khủng hoảng nội bộ – Knut Ahnlund, một thành viên Hàn lâm viện, đã từ chức để phản đối, gọi tác phẩm của Jelinek là khiêu dâm và vô nghĩa. Ở Áo, phản ứng còn gay gắt hơn, với các chính trị gia cánh hữu và truyền thông bảo thủ công kích cô dữ dội. Tuy nhiên, chính những phản ứng này chứng minh sức mạnh của văn học Jelinek – cô đã chạm vào những vết thương chưa lành của xã hội Áo: quá khứ phát xít được che đậy, patriarchy bạo lực được chuẩn hóa, và tư bản được thánh hóa. Những người không muốn nhìn thấy những vấn đề này tất nhiên sẽ tấn công người chỉ ra chúng.
Đóng góp của Jelinek đối với văn học nữ quyền là căn bản. Cô đã đưa chủ nghĩa nữ quyền triệt để vào văn học cao cấp, từ chối mọi sự thỏa hiệp. Không giống các nhà văn nữ quyền khác có thể cân bằng giữa phê phán và sự chấp nhận của thị trường, Jelinek không bao giờ viết để làm hài lòng độc giả. Cô coi nhiệm vụ của nghệ sĩ là làm cho người đọc khó chịu, buộc họ đối mặt với những gì họ muốn phủ nhận. Các nhà lý thuyết nữ quyền như Judith Butler và Slavoj Žižek đã phân tích tác phẩm của Jelinek, cho rằng cô đã thể hiện cách patriarchy không chỉ là hệ thống áp bức bên ngoài mà đã thâm nhập sâu vào ngôn ngữ, tình dục và chính cấu trúc mong muốn của con người. Jelinek chứng minh rằng giải phóng phụ nữ không chỉ là vấn đề bình đẳng pháp lý mà đòi hỏi thay đổi triệt để toàn bộ cấu trúc xã hội và văn hóa.
Di sản văn học của Jelinek cũng quan trọng về mặt hình thức. Cô đã mở rộng khả năng của tiểu thuyết và kịch bằng cách phá vỡ các quy ước tự sự truyền thống. Montage ngôn ngữ, sự vắng mặt của cốt truyện tuyến tính, nhân vật phi tâm lý học, và sử dụng irony tàn khốc – tất cả những kỹ thuật này đã ảnh hưởng đến văn học thử nghiệm đương đại. Các nhà văn như Deborah Levy, Chris Kraus, và Rachel Kushner đều có nét tương đồng với Jelinek trong cách họ sử dụng ngôn ngữ như công cụ phê phán chính trị và xã hội. Cho đến ngày nay, Jelinek vẫn tiếp tục viết và đăng tác phẩm trực tuyến, phản ứng với các sự kiện chính trị hiện tại từ khủng hoảng tị nạn đến Covid – 19, chứng minh rằng nghệ thuật của cô luôn gắn liền với thực tại xã hội và cam kết chính trị không bao giờ suy yếu.
Bị gạt ra ngoài lề, Elfriede Jelinek
Viết lách có phải là món quà của việc thu mình lại, của việc thu mình cùng với hiện thực không. Người ta dĩ nhiên rất muốn thu mình lại, nhưng rồi điều gì sẽ xảy ra với tôi. Điều gì sẽ xảy ra với những kẻ vốn hoàn toàn không thật sự biết hiện thực là gì. Hiện thực ấy rối bời đến mức nào. Không có chiếc lược nào có thể chải cho nó ngay ngắn. Những người viết lao xuyên qua đó và trong tuyệt vọng gom mớ tóc của mình lại thành một kiểu dáng, để rồi ngay trong đêm kiểu tóc ấy quay lại ám họ. Có điều gì đó không ổn trong diện mạo của người ta. Mái tóc được vun xếp đẹp đẽ ấy có thể bị xua đuổi ra khỏi ngôi nhà của những giấc mơ, nhưng rốt cuộc vẫn không còn có thể bị thuần phục nữa. Hoặc lại rũ xuống lần nữa, như một tấm khăn che trước gương mặt, vừa mới bị chế ngự xong đã lập tức buông thả. Hoặc dựng đứng lên một cách bất ngờ vì kinh hoàng trước những gì liên tục xảy ra. Nó đơn giản là không chịu được sắp xếp. Nó không muốn. Dù người ta có bao nhiêu lần đưa chiếc lược với vài chiếc răng đã gãy xuyên qua nó đi nữa thì vẫn vậy. Có điều gì đó còn tệ hơn cả trước đó. Việc viết, thứ xử lý những gì xảy ra, trôi tuột qua các ngón tay người ta như thời gian, và không chỉ là thời gian, trong đó nó được viết, trong đó sự sống đã dừng lại. Không ai bỏ lỡ điều gì, nếu sự sống dừng lại. Không phải kẻ đang sống và cũng không phải thời gian đã chết, và kẻ đã chết thì hoàn toàn không. Khi người ta còn viết, thời gian tìm được đường đi vào tác phẩm của những người viết khác. Vì nó là thời gian, nó có thể làm mọi thứ cùng một lúc: tìm đường đi vào chính tác phẩm của mình và đồng thời vào tác phẩm của người khác, thổi vào những kiểu tóc rối bù của kẻ khác như một cơn gió tươi mới, dù là ác ý, bất ngờ và không báo trước, nổi lên từ phía hiện thực. Một khi điều gì đó đã nổi lên, thì có lẽ nó sẽ không nhanh chóng nằm yên trở lại. Cơn gió giận dữ thổi và cuốn phăng mọi thứ theo nó. Và nó cuốn đi tất cả, bất kể là đi đâu, nhưng không bao giờ quay lại hiện thực này, thứ lẽ ra phải được đại diện. Đi khắp nơi, trừ nơi ấy. Hiện thực là thứ chui vào dưới mái tóc, dưới váy áo và đúng là như vậy: nó cuốn chúng đi và ném vào một cái gì khác. Làm sao người viết có thể biết được hiện thực, nếu chính hiện thực là thứ chui vào anh ta và cuốn anh ta đi, vĩnh viễn sang bên lề. Từ đó, một mặt, anh ta nhìn rõ hơn, mặt khác, chính anh ta lại không thể ở lại trên con đường của hiện thực. Ở đó không có chỗ cho anh ta. Chỗ của anh ta luôn luôn là ở bên ngoài. Chỉ những gì anh ta nói từ bên ngoài mới có thể được tiếp nhận vào bên trong, và đó là bởi vì anh ta nói những điều nước đôi. Và rồi đã có sẵn hai kẻ phù hợp, hai khuôn mặt đúng đắn, những kẻ cảnh báo rằng chẳng có gì đang xảy ra cả, hai kẻ diễn giải nó theo những hướng khác nhau, vươn tay tới những nền tảng không đầy đủ, những nền tảng đã từ lâu gãy rời như những chiếc răng của chiếc lược. Hoặc thế này hoặc thế kia. Đúng hoặc sai. Điều đó sớm hay muộn gì cũng phải xảy ra, bởi vì nền móng với tư cách là nền móng xây dựng đã hoàn toàn không đầy đủ. Và làm sao người ta có thể xây dựng trên một hố sâu không đáy được. Nhưng sự không đầy đủ đi vào tầm nhìn của những người viết ấy, vẫn còn đủ đầy cho một thứ gì đó, thứ mà họ cũng có thể nhận lấy hoặc bỏ qua. Họ có thể nhận hoặc bỏ, và họ bỏ. Họ không giết nó. Họ chỉ nhìn nó bằng đôi mắt lờ đờ của mình, nhưng vì cái nhìn lờ đờ ấy mà nó không trở nên tùy tiện. Cái nhìn ấy được nhắm rất chuẩn. Bất cứ thứ gì bị trúng cái nhìn ấy đều nói, ngay cả khi nó đang chìm xuống, dù nó hầu như chưa từng được nhìn, dù nó thậm chí còn chưa từng bị phơi bày trước cái nhìn sắc bén của công chúng, bất cứ thứ gì đã bị trúng đều không bao giờ nói rằng nó cũng có thể đã là một cái gì khác, trước khi trở thành nạn nhân của sự mô tả duy nhất này. Nó nói chính xác điều đáng lẽ tốt hơn nên để không nói ra, bởi vì có lẽ nó có thể đã được nói hay hơn, điều luôn luôn phải còn mơ hồ và không có nền tảng. Quá nhiều người đã chìm vào đó đến tận bụng. Đó là cát lún, nhưng nó không làm cho bất cứ điều gì trở nên nhanh hơn. Nó không có nền, nhưng không phải là không có những cơ sở. Nó là như bạn muốn, nhưng nó không được yêu thích.
Bên lề phục vụ cho đời sống, thứ chính xác là không diễn ra ở đó, nếu không thì chúng ta đã không phải tất cả đều ở trong đó, ở trong sự dày đặc, trong sự sung mãn, sự sung mãn của đời sống con người, và nó phục vụ cho việc quan sát đời sống, thứ luôn luôn diễn ra ở một nơi khác. Ở nơi người ta không có mặt. Tại sao lại xúc phạm một ai đó, chỉ vì anh ta không thể tìm được đường quay lại lộ trình của sự lên đường, của đời sống, của hành trình đời sống, nếu anh ta đã mang nó, và việc mang này không phải là mang vác một ai đó, nhưng cũng không phải là có liên quan đến điều gì, mà đơn giản là đã mang nó một cách tình cờ, như bụi bám trên một đôi giày, thứ bị bà nội trợ săn đuổi không thương tiếc, chỉ kém phần không thương tiếc so với cách người lạ bị dân địa phương săn đuổi. Đó là thứ bụi gì vậy. Nó có tính phóng xạ hay tự thân đã hoạt động, chỉ như thế thôi, tôi chỉ hỏi vậy, bởi vì nó để lại một vệt sáng kỳ lạ trên đường đi. Phải chăng thứ chạy song song và không bao giờ gặp lại người viết nữa chính là con đường, hay chính người viết là kẻ đang chạy song song, ra bên lề. Anh ta chưa qua đời, nhưng anh ta đã vượt qua lằn ranh rồi. Từ đó anh ta nhìn thấy những kẻ đã rời bỏ anh ta, nhưng cũng rời bỏ nhau, trong toàn bộ sự đa dạng của họ, để đại diện cho họ trong toàn bộ sự cả tin của họ, để đưa họ vào khuôn dạng, bởi vì hình thức là điều quan trọng nhất, dù sao thì từ đó anh ta cũng nhìn họ rõ hơn. Nhưng điều đó cũng bị ghi phấn chống lại anh ta, vậy những vệt phấn ấy chẳng phải là những hạt vật chất phát sáng, thứ đánh dấu con đường của việc viết hay sao. Dù sao thì đó cũng là một sự đánh dấu, thứ đồng thời phô bày và che khuất, rồi sau đó lại cẩn thận che phủ chính dấu vết mà anh ta đã tự mình đặt ra. Người ta chưa bao giờ thực sự ở đó cả. Nhưng dẫu vậy người ta vẫn biết chuyện gì đang xảy ra. Những từ ngữ đã đi xuống từ một màn hình, từ những gương mặt bê bết máu méo mó vì đau đớn, từ những gương mặt cười đùa trang điểm, với đôi môi được bơm căng trước đó chỉ để trang điểm, hoặc từ những kẻ khác, những kẻ đã trả lời đúng một câu hỏi trong một trò chơi đố vui, hoặc những kẻ sinh ra đã thích nói, những phụ nữ không có gì ủng hộ cũng chẳng có gì phản đối, những kẻ đứng lên và cởi áo khoác để chỉ thẳng bộ ngực vừa mới được làm cứng lại, thứ trước kia đã từng được thép hóa và thuộc về đàn ông, vào ống kính. Ngoài ra còn vô số những cổ họng, từ đó tiếng hát trào ra như hơi thở hôi, chỉ là lớn tiếng hơn. Đó là những gì người ta có thể thấy trên con đường ấy, nếu người ta vẫn còn ở trên đó. Người ta bước ra khỏi con đường của con đường. Có lẽ người ta nhìn nó từ xa, nơi người ta ở lại một mình, và sung sướng biết bao, bởi vì người ta muốn nhìn con đường, nhưng không muốn đi trên nó. Con đường này vừa rồi có phát ra tiếng động không. Giờ nó muốn thu hút sự chú ý bằng âm thanh chứ không chỉ bằng ánh sáng, những con người ồn ào, những ánh sáng ồn ào sao. Con đường mà người ta không thể bước đi, có sợ rằng nó sẽ không được bước đi chút nào không, khi mà có quá nhiều tội lỗi liên tục được thực hiện, tra tấn, lạm dụng, trộm cắp, hành vi đe dọa, sự đe dọa cần thiết trong việc sản xuất những số phận thế giới quan trọng. Điều đó không tạo ra khác biệt nào đối với con đường. Nó gánh chịu tất cả, vững vàng, dù không có nền. Không có nền. Trên nền đã mất. Mái tóc của tôi, như đã nói, đang dựng đứng, và không có thứ keo xịt nào có thể buộc nó cứng lại. Không có sự vững vàng nào trong chính tôi cả. Không ở trên tôi, không ở trong tôi. Khi người ta ở bên lề, người ta luôn phải sẵn sàng nhảy sang một chút rồi lại thêm một chút nữa sang bên, vào khoảng trống, thứ nằm ngay sát bên lề. Và bên lề đã mang theo cùng nó cái hố sập của chính nó, nó sẵn sàng bất cứ lúc nào, nó há to, để dụ người ta ra xa hơn nữa. Dụ ra cũng là dụ vào. Xin hãy cho phép tôi đừng để lạc mất tầm nhìn khỏi con đường mà tôi không ở trên đó. Tôi rất muốn mô tả nó một cách trung thực và trên hết là đúng đắn và chính xác. Nếu tôi thực sự đang nhìn vào nó, thì nó cũng nên mang lại điều gì đó cho tôi. Nhưng con đường này không tha cho tôi điều gì. Nó không để lại cho tôi điều gì. Vậy còn lại gì cho tôi nữa. Tôi bị ngăn cản không được ở trên con đường của mình, tôi hầu như không thể tự mở lối cho mình. Tôi ở ngoài, trong khi không hề đi ra ngoài. Và ngay cả ở đó, tôi dĩ nhiên cũng muốn có sự bảo vệ chống lại sự bất định của chính mình, nhưng cũng chống lại sự bất định của nền đất mà tôi đang đứng trên đó. Nó chạy để kiểm tra, không chỉ để bảo vệ tôi, ngôn ngữ của tôi ngay bên cạnh tôi, và nó kiểm tra xem tôi có đang làm đúng hay không, mô tả hiện thực đúng cách sai lầm hay không, bởi vì hiện thực luôn luôn phải được mô tả một cách sai lầm, không có cách nào khác, nhưng sai lầm đến mức bất cứ ai đọc hoặc nghe đều lập tức nhận ra sự giả dối. Đó là những lời dối trá. Và con chó này, ngôn ngữ, thứ được cho là phải bảo vệ tôi, đó là lý do vì sao tôi có nó, giờ đây lại đang ngoạm vào gót chân tôi. Kẻ bảo vệ tôi muốn cắn tôi. Kẻ bảo vệ duy nhất của tôi chống lại việc bị mô tả, ngôn ngữ, thứ ngược lại tồn tại để mô tả một cái gì khác, thứ mà tôi không phải, đó là lý do vì sao tôi phủ kín quá nhiều giấy, kẻ bảo vệ duy nhất của tôi đang quay lại chống lại tôi. Có lẽ tôi chỉ giữ nó lại, để trong khi giả vờ bảo vệ tôi, nó lao vào cắn xé tôi. Bởi vì tôi đã tìm kiếm sự bảo vệ trong việc viết, trong việc ở trên con đường của mình, ngôn ngữ, thứ trong chuyển động, trong lời nói, từng xuất hiện như một nơi trú ẩn an toàn, giờ quay lại chống lại tôi. Không có gì lạ. Rốt cuộc tôi đã không tin tưởng nó ngay từ đầu. Đó là thứ ngụy trang gì vậy, thứ không tồn tại để làm cho người ta trở nên vô hình, mà để làm cho người ta ngày càng rõ nét hơn.
Đôi khi ngôn ngữ tự lạc vào con đường một cách nhầm lẫn, nhưng nó không rời khỏi con đường. Việc nói bằng ngôn ngữ không phải là một quá trình tùy tiện, mà là một quá trình tùy tiện một cách bất khả kháng, dù người ta có thích hay không. Ngôn ngữ biết nó muốn gì. Tốt cho nó, bởi vì tôi thì không biết, không, hoàn toàn không biết. Nói, nói chung chung vẫn cứ nói ở bên kia, bởi vì ở đó lúc nào cũng có nói, nói không ngừng, không có khởi đầu cũng không có kết thúc, nhưng lại không có phát ngôn. Vì thế ở đó có nói, ở bất cứ nơi nào những kẻ khác đang ở, bởi vì họ không muốn dừng lại, họ rất bận rộn. Chỉ có họ ở bên kia. Không phải tôi. Chỉ có ngôn ngữ, thứ đôi khi rời xa tôi, đến với con người, không phải những con người khác, mà là rời đi về phía cái thật, cái chân thực, trên con đường đã được chỉ dẫn rõ ràng, ai có thể lạc lối ở đây, theo sát từng cử động của họ như một chiếc máy quay, để ít nhất nó, ngôn ngữ, tìm ra được cuộc sống là gì và diễn ra như thế nào, bởi vì khi đó chính nó lại không phải là điều ấy, và sau đó toàn bộ phải được mô tả, ngay cả trong cái mà nó chính xác là không phải. Hãy nói về việc rằng chúng ta lại một lần nữa được yêu cầu đi kiểm tra y tế. Nhưng rồi đột nhiên chúng ta nói, với sự nghiêm ngặt cần thiết, như thể một người có quyền lựa chọn có nói hay không. Dù điều gì xảy ra đi nữa, chỉ có ngôn ngữ là rời xa tôi, còn chính tôi, tôi ở lại xa. Ngôn ngữ đi. Tôi ở lại, nhưng ở xa. Không ở trên con đường. Và tôi câm lặng.
Không, nó vẫn còn ở đó. Có lẽ nó đã ở đó suốt thời gian qua, nó cân nhắc xem nó có thể đè nặng lên ai. Giờ đây nó đã nhận ra tôi và lập tức ngoạm vào tôi, thứ ngôn ngữ này. Nó dám dùng giọng điệu mệnh lệnh với tôi, nó giơ tay chống lại tôi, nó không thích tôi. Nó sẽ rất thích những người dễ thương trên con đường, bên cạnh những người mà nó chạy theo, như một con chó, giả vờ vâng lời. Thực chất nó không chỉ không vâng lời tôi, mà còn không vâng lời bất kỳ ai khác. Nó không thuộc về ai ngoài chính nó. Nó gào thét xuyên qua đêm, bởi vì không ai nhớ đặt những ngọn đèn dọc theo con đường này, những ngọn đèn chỉ được cung cấp bởi mặt trời và không còn cần đến bất kỳ dòng điện nào từ ổ cắm, hoặc đặt cho con đường một cái tên đàng hoàng. Nhưng nó có quá nhiều cái tên, đến mức không thể theo kịp tất cả việc đặt tên, nếu người ta cố làm vậy. Tôi hét sang bên kia, trong sự cô độc của mình, giẫm đạp qua những nấm mồ của những kẻ đã khuất, bởi vì khi tôi đã chạy song song rồi, tôi không thể chú ý đầy đủ đến những gì tôi đang giẫm lên, những ai tôi đang giẫm xuống, tôi chỉ muốn bằng cách nào đó đến được nơi mà ngôn ngữ của tôi đã ở đó rồi, và nơi nó đang cười nhạo tôi một cách mỉa mai. Bởi vì nó biết rằng, nếu tôi từng thử sống, nó sẽ sớm vấp ngã tôi, rồi xát muối vào vết thương của tôi. Tốt. Vậy thì tôi sẽ rắc muối lên con đường của những kẻ khác, tôi ném nó xuống, để băng của họ tan chảy, muối thô, để ngôn ngữ của họ mất đi nền tảng vững chắc. Và thực ra từ lâu nó đã không có nền tảng. Thật là trơ trẽn không đáy. Nếu tôi không có nền đất vững chắc dưới chân, thì ngôn ngữ của tôi cũng không thể có. Đáng đời nó. Tại sao nó đã không ở lại với tôi, ở bên lề, tại sao nó lại rời bỏ tôi. Nó muốn nhìn thấy nhiều hơn tôi sao. Ở con đường cao tốc bên kia, nơi có nhiều người hơn, nhất là nhiều người dễ mến hơn, đang trò chuyện vui vẻ với nhau. Nó muốn biết nhiều hơn tôi sao. Nó luôn luôn biết nhiều hơn tôi, điều đó là đúng, nhưng nó còn phải biết nhiều hơn thế nữa. Nó sẽ kết liễu chính mình bằng cách tự ăn mòn lấy mình, ngôn ngữ của tôi. Nó sẽ nuông chiều hiện thực đến mức quá độ. Đáng đời nó. Tôi đã nhổ nó ra, nhưng nó thì không nhổ ra gì cả, nó rất giỏi nuốt xuống. Ngôn ngữ của tôi gọi sang tôi, ở bên lề, nó thích nhất là gọi sang bên lề, nó không cần phải nhắm quá cẩn thận, nhưng cũng không cần, bởi vì nó luôn luôn trúng đích, không phải bằng việc nói điều gì đó, mà bằng việc nói với sự khắc khổ của việc để cho tồn tại, như Heidegger nói về Trakl. Nó gọi tôi, ngôn ngữ gọi, ngày nay ai cũng có thể làm vậy, bởi vì ai cũng luôn mang theo ngôn ngữ của mình trong một thiết bị nhỏ, để họ có thể nói, nếu không thì họ đã học nó để làm gì, vì thế nó gọi tôi ở nơi tôi bị mắc bẫy và gào thét và quẫy đạp, nhưng không, điều đó không đúng, ngôn ngữ của tôi không gọi, nó cũng đã đi rồi, ngôn ngữ của tôi đã rời bỏ tôi, đó là lý do vì sao nó phải gọi, nó hét vào tai tôi, bất kể từ thiết bị nào, một máy vi tính hay một điện thoại di động, một buồng điện thoại, từ nơi đó nó gầm lên trong tai tôi rằng không có ích gì khi nói ra điều gì đó thành tiếng, bởi vì nó đã làm điều đó rồi, tôi chỉ cần nói những gì nó bảo tôi nói, bởi vì thậm chí còn vô ích hơn nữa nếu một lần nói ra điều đang ở trong đầu mình với một người thân yêu, kẻ đã ngã xuống trong vụ việc và người ta có thể tin cậy, bởi vì anh ta đã ngã và sẽ không đứng dậy nhanh chóng, để đuổi theo mình và, vâng, để trò chuyện một chút. Không có ích gì cả. Những lời của ngôn ngữ của tôi ở bên kia, trên con đường dễ chịu ấy, tôi biết nó dễ chịu hơn con đường của tôi, vốn thực ra không phải là con đường nào cả, nhưng tôi không nhìn rõ, nhưng tôi biết rằng tôi cũng muốn ở đó, những lời của ngôn ngữ của tôi vì thế, trong việc rời bỏ tôi, đã ngay lập tức trở thành một sự nói ra. Không, không phải là nói ra với ai đó. Mà là một sự nói tuôn ra. Nó lắng nghe chính mình đang nói tuôn ra, ngôn ngữ của tôi, nó tự chỉnh sửa mình, bởi vì lời nói lúc nào cũng có thể được cải thiện, vâng, nó luôn luôn có thể được cải thiện, nó thậm chí còn hoàn toàn tồn tại để được cải thiện rồi sau đó đưa ra một phán quyết ngôn ngữ mới, nhưng rồi chỉ để ngay lập tức lật ngược các quy tắc ấy một lần nữa. Điều đó rồi sẽ trở thành con đường mới dẫn đến sự cứu rỗi, dĩ nhiên tôi muốn nói là giải pháp. Một giải pháp nhanh. Xin hãy, ngôn ngữ thân mến, chẳng lẽ một lần nào đó anh không muốn lắng nghe trước sao. Để anh học được điều gì đó, để cuối cùng anh học được các quy tắc của việc nói. Anh đang hét và lầm bầm điều gì ở bên kia vậy. Anh làm điều đó, hỡi ngôn ngữ, để tôi nhân từ tiếp nhận anh trở lại sao. Tôi đã nghĩ rằng anh hoàn toàn không muốn quay lại với tôi. Không có dấu hiệu nào cho thấy anh muốn quay lại với tôi, dù sao thì điều đó cũng vô ích, tôi đã không thể hiểu được dấu hiệu ấy. Anh chỉ trở thành ngôn ngữ để rời xa tôi và để bảo đảm rằng tôi tiếp tục tiến lên sao. Nhưng chẳng có gì được bảo đảm cả. Và nhất là không phải bởi anh, điều đó tôi biết rõ về anh. Tôi thậm chí không còn nhận ra anh nữa. Anh muốn tự nguyện quay lại với tôi sao. Tôi sẽ không tiếp nhận anh nữa, anh nghĩ sao về điều đó. Đi là đi. Đi không phải là con đường.
Vậy nếu sự cô độc của tôi, nếu sự vắng mặt thường trực của tôi, sự tồn tại không gián đoạn của tôi ở bên lề, đích thân đến đón ngôn ngữ quay về, để nó, được tôi chăm sóc chu đáo, cuối cùng cũng trở về nhà, trở về với một âm thanh đẹp đẽ mà nó có thể thốt ra, thì điều đó cũng chỉ xảy ra để với chính âm thanh ấy, tiếng hú xuyên thấu, chói tai của một còi báo động, bị gió thổi lên, nó có thể đẩy tôi ra xa hơn nữa, ngày càng xa hơn nữa khỏi bên lề. Vì lực giật lùi của ngôn ngữ này, thứ chính tôi đã sản sinh ra và đã chạy trốn khỏi tôi, hay là tôi đã sản sinh ra nó chính vì mục đích đó, để nó lập tức chạy trốn khỏi tôi, bởi vì tôi đã không kịp chạy trốn khỏi chính mình, tôi bị truy đuổi ngày càng sâu hơn vào không gian vượt ra ngoài bên lề này. Ngôn ngữ của tôi đã sớm lăn lộn đầy khoái cảm trong vũng bùn của nó, cái ngôi mộ tạm bợ nhỏ bé trên con đường, và nó ngước nhìn lên ngôi mộ ở trên không, nó lăn lộn ngửa bụng, một sinh vật thân thiện, thứ muốn làm vừa lòng con người như bất kỳ ngôn ngữ đứng đắn nào, nó lăn lộn, dang chân ra, hẳn là để được vuốt ve, chứ còn để làm gì nữa. Rốt cuộc nó thèm khát những cái vuốt ve. Điều đó khiến nó không còn ngoái nhìn về phía những người chết nữa, để rồi tôi buộc phải ngoái nhìn thay cho nó, và dĩ nhiên cuối cùng mọi thứ lại đổ dồn lên tôi. Vì thế tôi đã không có thời gian để kiềm chế ngôn ngữ của mình, thứ giờ đây trơ trẽn lăn lộn dưới những bàn tay vuốt ve. Đơn giản là có quá nhiều người chết mà tôi phải chăm lo, đó là một thuật ngữ kỹ thuật của Áo, có nghĩa là tôi phải trông nom, phải đối xử tử tế, nhưng chúng tôi vốn nổi tiếng vì điều đó, vì luôn luôn đối xử tử tế với mọi người. Thế giới đang dõi theo chúng tôi, không cần phải lo lắng. Chúng tôi không cần phải chăm sóc điều đó. Nhưng yêu cầu phải nhìn thẳng vào những người chết càng vang lên rõ ràng trong tôi bao nhiêu, thì tôi càng ít có khả năng chú ý đến lời nói của mình bấy nhiêu. Tôi phải nhìn thẳng vào người chết, trong khi meanwhile những kẻ dạo chơi đang vuốt ve thứ ngôn ngữ cũ kỹ quen thuộc và vỗ nhẹ dưới cằm nó, điều đó không làm cho người chết sống lại thêm chút nào. Không ai phải chịu trách nhiệm. Ngay cả tôi, rối bời như tôi và mái tóc của tôi, cũng không phải chịu trách nhiệm cho việc người chết vẫn là người chết. Tôi muốn ngôn ngữ ở bên kia cuối cùng cũng thôi làm nô lệ cho bàn tay của những kẻ xa lạ, dù điều đó có dễ chịu đến đâu, tôi muốn nó trước hết phải ngừng đưa ra những đòi hỏi, mà tự bản thân nó trở thành một đòi hỏi, cuối cùng phải đối diện với nó, không phải là những cái vuốt ve, mà là một đòi hỏi phải quay trở lại với tôi, bởi vì ngôn ngữ luôn luôn phải đối diện, chỉ là nó không phải lúc nào cũng biết điều đó và không lắng nghe tôi. Nó phải đối diện, bởi vì những con người muốn nhận nuôi nó thay cho một đứa trẻ, nó quá đáng yêu nếu người ta yêu nó, vì thế con người không bao giờ đối diện, họ quyết định, họ không trả lời những lời kêu gọi, nhiều người trong số họ thậm chí còn ngay lập tức hủy hoại, xé nát, đốt cháy lệnh gọi nhập ngũ cho tính xã hội, và cả lá cờ cùng với nó. Vì vậy càng có nhiều người chấp nhận lời mời của ngôn ngữ của tôi để gãi bụng nó, để làm xù thứ gì đó, để âu yếm chấp nhận sự thân thiện của nó, thì tôi càng loạng choạng lùi xa hơn, cuối cùng tôi đã mất ngôn ngữ của mình vào tay những kẻ đối xử với nó tốt hơn, tôi gần như đang bay, rốt cuộc con đường mà tôi cần để lao xuống nhanh chóng nằm ở đâu trên trần thế này. Làm sao tôi đến được nơi nào để làm việc gì. Làm sao tôi đến được nơi mà tôi có thể mở ra những công cụ của mình, nhưng thực ra lại có thể lập tức thu dọn chúng đi. Ở bên kia có thứ gì đó đang lóe sáng dưới những cành cây, đó có phải là nơi mà ngôn ngữ của tôi trước hết nịnh nọt những kẻ khác, ru họ vào một cảm giác an toàn, chỉ để cuối cùng chính nó được ru một cách âu yếm một lần hay không. Hay là nó lại muốn cắn. Nó luôn luôn chỉ muốn cắn, chỉ là những kẻ khác chưa biết điều đó, còn tôi thì biết rất rõ, tôi đã ở cùng nó trong một thời gian dài. Trước hết là những cái ôm ấp và những lời thì thầm ngọt ngào dành cho sinh vật có vẻ thuần phục này, thứ mà ai cũng đã có ở nhà rồi, tại sao họ lại mang một con vật lạ vào nhà. Vậy thì tại sao ngôn ngữ này lại phải khác với thứ mà họ đã biết. Và nếu nó khác, thì có lẽ sẽ nguy hiểm khi tiếp nhận nó. Có lẽ nó sẽ không hòa hợp với thứ mà họ đã có sẵn. Càng có nhiều những kẻ xa lạ thân thiện, những kẻ biết cách sống, nhưng dẫu vậy lại rất xa với việc biết cuộc đời của mình, bởi vì họ theo đuổi những ý định vuốt ve của mình, bởi vì họ luôn luôn phải theo đuổi một điều gì đó, thì cái nhìn của tôi càng không còn nhìn xuyên qua con đường đến với ngôn ngữ nữa. Dặm này sang dặm khác. Ai khác có thể nhìn thấu mọi thứ, nếu không phải là cái nhìn. Lời nói muốn chiếm lấy cả việc nhìn nữa sao. Nó muốn nói trước khi nó thậm chí còn chưa nhìn thấy sao. Nó lăn lộn ở đó, bị bàn tay sờ soạng, bị gió vùi dập, được bão vuốt ve, bị sự lắng nghe xúc phạm, cho đến khi nó hoàn toàn không còn lắng nghe nữa. Thôi thì vậy. Vậy thì tất cả hãy lắng nghe ở đây một lần. Kẻ nào không muốn lắng nghe, thì phải nói mà không được lắng nghe. Gần như mọi người đều không được lắng nghe, dù họ có nói. Tôi được lắng nghe, dù ngôn ngữ của tôi không thuộc về tôi, dù tôi hầu như không còn nhìn thấy nó nữa. Có nhiều điều được nói chống lại nó. Vì thế nó không còn nhiều điều để nói thay cho chính mình, điều đó cũng tốt. Nó được lắng nghe, trong khi nó chậm rãi lặp lại, còn ở đâu đó một nút bấm màu đỏ được ấn xuống, thứ kích hoạt một vụ nổ khủng khiếp. Không còn gì để nói nữa, ngoài lời: Lạy Cha chúng con, Đấng ngự. Điều đó không thể là tôi, dù rốt cuộc tôi là cha, nghĩa là mẹ, của ngôn ngữ của tôi. Tôi là cha của tiếng mẹ đẻ của mình. Tiếng mẹ đẻ đã ở đó từ thuở ban đầu, nó ở trong tôi, nhưng không có người cha nào ở đó, kẻ có thể thuộc về nó. Ngôn ngữ của tôi thường là không đứng đắn, điều đó đã được nói rõ với tôi đủ nhiều lần, nhưng tôi đã không muốn hiểu ẩn ý. Lỗi của tôi. Người cha đã rời bỏ gia đình hạt nhân này cùng với tiếng mẹ đẻ. Ông đã đúng. Ở vị trí của ông tôi cũng đã không ở lại. Giờ đây tiếng mẹ đẻ của tôi đã đi theo cha tôi, nó đã đi rồi. Như đã nói, nó ở bên kia. Nó lắng nghe những con người trên con đường. Trên con đường của người cha, kẻ đã ra đi quá sớm. Giờ đây ngôn ngữ biết điều gì đó mà các bạn không biết, điều mà ông ấy đã không biết. Nhưng nó càng biết nhiều, thì nó càng nói ít. Dĩ nhiên, nó liên tục nói điều gì đó, nhưng nó nói không có gì cả. Và ngay lúc đó sự cô độc cũng đang cáo biệt. Nó không còn cần thiết nữa. Không ai nhìn thấy rằng tôi vẫn còn ở bên trong, trong sự cô độc. Tôi không được để ý đến. Có lẽ tôi được tôn vinh, nhưng tôi không được để ý đến.
Làm thế nào tôi bảo đảm rằng tất cả những lời của tôi nói ra được điều gì đó, có thể nói được điều gì đó với chúng ta. Tôi không thể làm điều đó bằng việc nói. Thực ra tôi thậm chí không thể nói, bởi vì ngôn ngữ của tôi thật không may hiện giờ không ở nhà. Ở bên kia nó nói một điều gì khác, thứ mà tôi cũng đã không yêu cầu nó, nhưng nó đã quên mệnh lệnh của tôi ngay từ đầu. Nó không nói với tôi, mặc dù rốt cuộc nó thuộc về tôi. Ngôn ngữ của tôi không nói với tôi bất cứ điều gì, vậy thì làm sao nó có thể nói điều gì đó với những người khác. Nhưng nó cũng không phải là không nói gì, các bạn phải thừa nhận điều đó. Nó nói càng nhiều hơn, càng xa tôi, đúng vậy, chỉ khi ấy nó mới dám nói điều gì đó, thứ mà chính nó muốn nói, khi ấy nó mới dám không tuân lệnh tôi, dám chống lại tôi. Khi người ta nhìn, người ta rời xa đối tượng càng lúc càng xa, càng nhìn lâu. Khi người ta nói, người ta lại nắm lấy nó, nhưng không thể giữ chặt nó. Nó tự giật mình thoát ra và vội vã chạy theo việc đặt tên của chính nó, những từ ngữ mà tôi đã tạo ra và đã đánh mất. Từ ngữ đã được trao đổi đủ nhiều lần, tỷ giá trao đổi thì tệ hại đến mức không thể tin nổi, và rồi nó không hơn gì việc: không thể tin nổi. Tôi nói điều gì đó, và rồi ngay từ đầu nó đã bị quên lãng. Đó là điều nó đã cố gắng hướng tới, nó muốn rời xa tôi. Điều không thể nói được được nói ra mỗi ngày, nhưng điều tôi nói thì lại không được phép. Điều đó thật là ác ý của cái đã được nói. Thật là ác ý không thể tin nổi. Cái đã được nói thậm chí không muốn thuộc về tôi. Nó muốn được hoàn tất, để người ta có thể nói: đã nói và đã làm. Tôi thậm chí sẽ hài lòng, nếu ngôn ngữ của tôi phủ nhận việc thuộc về tôi, nhưng dẫu vậy nó vẫn phải thuộc về tôi. Làm sao tôi có thể bảo đảm rằng nó ít nhất cũng gắn bó với tôi một chút. Rốt cuộc thì chẳng có gì bám lại trên những kẻ khác cả, vì vậy tôi dâng chính mình cho nó. Hãy quay lại. Xin hãy quay lại. Nhưng không. Ở bên kia trên con đường nó đang lắng nghe những bí mật mà tôi không được phép biết, ngôn ngữ của tôi, và nó truyền đạt những bí mật ấy cho những kẻ khác, những kẻ không muốn nghe chúng. Tôi thì muốn, đó sẽ là quyền của tôi, thực vậy, nếu các bạn thích, điều đó sẽ được đón nhận, nhưng nó không dừng lại và nói với tôi, nó cũng không làm vậy. Nó ở trong khoảng trống, thứ được phân biệt và tự phân biệt mình khỏi tôi, ở chỗ có rất nhiều kẻ ở đó. Trống rỗng chính là con đường. Tôi thậm chí còn ở bên lề của sự trống rỗng. Tôi đã rời khỏi con đường. Tôi chỉ nói hết điều này đến điều khác. Nhiều điều đã được nói về tôi, nhưng hầu như chẳng có điều nào là đúng. Chính tôi chỉ nói lại những gì kẻ khác đã nói, và tôi nói: đó bây giờ mới là điều thực sự đã được nói. Như tôi đã nói, đơn giản là không thể tin nổi. Đã lâu lắm rồi người ta mới nói nhiều đến thế. Việc lắng nghe của người ta không thể theo kịp nữa, dù người ta vẫn phải lắng nghe, để có thể làm được điều gì đó. Trong phương diện này, thứ trong thực tế lại là một sự ngoảnh mặt đi, thậm chí là ngoảnh mặt đi khỏi chính tôi, thì chẳng có gì để nói về tôi cả, chẳng có gì để nói, không còn gì để nói nữa. Tôi luôn chỉ nhìn theo đời sống, ngôn ngữ của tôi quay lưng lại với tôi, để nó có thể chìa bụng ra cho những kẻ xa lạ vuốt ve, trơ trẽn, còn với tôi thì nó chỉ cho tôi thấy cái lưng của nó, nếu nó còn cho thấy điều gì đó. Quá thường xuyên nó không đưa cho tôi một dấu hiệu nào và cũng không nói điều gì cả. Đôi khi tôi thậm chí không còn nhìn thấy nó ở bên kia nữa, và giờ đây tôi thậm chí không thể nói như đã nói ở trên, bởi vì trong khi tôi đã nói điều đó đủ nhiều lần rồi, thì tôi lại không thể nói nó nữa, tôi đã cạn lời. Đôi khi tôi nhìn thấy cái lưng hoặc những lòng bàn chân, những thứ mà chúng không thực sự có thể đi trên đó, những từ ngữ, nhưng nhanh hơn tôi đã có thể trong một thời gian dài và thậm chí là bây giờ. Tôi đang làm gì ở đó. Có phải đó là lý do vì sao ngôn ngữ thân yêu của tôi đã nằm xuống cách tôi một quãng. Như vậy dĩ nhiên nó sẽ luôn luôn nhanh hơn tôi, nhảy bật lên và chạy đi, khi tôi băng qua từ nơi làm việc của mình đến chỗ nó, để mang nó về. Tôi không biết tại sao tôi lại phải mang nó về. Để nó không mang tôi đi sao. Có lẽ chính nó, kẻ đã chạy trốn khỏi tôi, biết điều đó. Ai là kẻ không theo tôi. Ai giờ đây theo cái nhìn và lời nói của những kẻ khác, và thực sự không thể nhầm lẫn họ với tôi. Họ là những kẻ khác, bởi vì họ là những kẻ khác. Không vì lý do nào khác, ngoài việc họ là những kẻ khác. Thế là đủ cho lời nói của tôi. Điều chính yếu là tôi không làm điều đó: nói. Những kẻ khác, luôn luôn là những kẻ khác, để không phải là tôi, kẻ thuộc về nó, ngôn ngữ ngọt ngào. Tôi rất muốn vuốt ve nó, như những kẻ khác ở bên kia, nếu tôi chỉ có thể bắt được nó. Nhưng rồi nó lại ở bên kia, để tôi không thể bắt được nó.
Khi nào nó sẽ lặng lẽ bỏ đi. Khi nào sẽ có thứ gì đó bỏ đi, để có sự im lặng. Ngôn ngữ ở bên kia càng bỏ đi, thì người ta càng nghe thấy nó to hơn. Nó ở trên môi của mọi người, chỉ không ở trên môi tôi. Đầu óc tôi mờ mịt. Tôi không ngất đi, nhưng đầu óc tôi mờ mịt. Tôi kiệt sức vì nhìn theo ngôn ngữ của mình như một ngọn hải đăng bên biển, thứ được cho là phải soi đường cho ai đó về nhà và vì thế tự mình đã bị thắp sáng, và trong khi quay vòng luôn luôn phơi bày ra một thứ khác từ bóng tối, nhưng rốt cuộc nó có ở đó hay không, dù nó có được thắp sáng hay không, nó vẫn là một ngọn hải đăng, thứ không giúp được ai cả, cho dù người đàn ông kia có ước ao điều đó đến đâu, để không phải chết trong nước. Tôi càng cố nhận ra nó bao nhiêu, thì ngôn ngữ càng bướng bỉnh không chịu tắt đi bấy nhiêu. Giờ đây tôi dập tắt ánh sáng ngôn ngữ này một cách máy móc, tôi chuyển nó sang ánh sáng chờ, nhưng tôi càng cố trùm lên nó, một cái chụp tắt nến ở đầu một cây sào dài, thứ mà thời thơ ấu tôi đã dùng để dập tắt những ngọn nến trong nhà thờ, thì ngọn lửa này dường như càng có nhiều không khí hơn. Và nó càng gào thét to hơn, lăn lộn dưới hàng ngàn bàn tay, những bàn tay làm cho nó dễ chịu, điều mà không may tôi chưa bao giờ làm, tôi không biết điều gì sẽ làm tôi dễ chịu, vì thế giờ đây nó gào thét, để có thể tránh xa tôi. Nó hét với những kẻ khác, để họ cũng tham gia và gào thét như nó, để tiếng ồn lớn dần lên. Nó hét rằng tôi không nên đến quá gần. Không ai nên đến quá gần bất cứ ai. Và điều đã được nói ra cũng không nên đến quá gần điều mà người ta muốn nói. Người ta không nên đến quá gần chính ngôn ngữ của mình, đó là một sự xúc phạm, nó hoàn toàn có khả năng lặp lại điều gì đó sau chính nó, chói tai đến mức không ai nghe thấy rằng điều nó nói đã từng được đọc cho nó nghe trước đó. Nó thậm chí còn hứa hẹn với tôi, để tôi tránh xa nó. Nó hứa với tôi mọi thứ, nếu tôi chỉ không đến gần nó. Hàng triệu người được phép đến gần nó, trừ tôi. Thế nhưng nó là của tôi. Các bạn nghĩ gì về điều đó. Tôi đơn giản là không thể nói với các bạn tôi nghĩ gì về điều đó. Ngôn ngữ này hẳn đã quên mất khởi đầu của nó, tôi không có cách giải thích nào khác. Với tôi nó đã bắt đầu rất nhỏ. Không, nó đã lớn lên như thế nào, tôi không thể nói với các bạn. Như thế này tôi thậm chí không còn nhận ra nó nữa. Tôi đã biết nó, khi nó chỉ cao đến chừng ấy. Khi nó còn yên lặng như thế, khi ngôn ngữ vẫn còn là đứa con của tôi. Giờ đây nó đột nhiên trở nên khổng lồ. Đó không còn là đứa con của tôi nữa. Đứa trẻ không lớn lên, nó chỉ to ra, nó không biết rằng nó vẫn chưa vượt qua được tôi, nhưng dẫu vậy nó lại hoàn toàn tỉnh táo. Nó tỉnh táo đến mức nó làm mình chìm lấp trong tiếng khóc của chính nó, và trong tiếng khóc của bất cứ ai khóc to hơn nó. Rồi nó xoáy lên đến một cao độ không thể tin nổi. Hãy tin tôi đi, các bạn thật sự không muốn nghe nó đâu. Và xin đừng tin rằng tôi tự hào về đứa trẻ này. Ngay từ lúc ban đầu tôi đã muốn nó ở lại yên lặng như khi nó còn chưa nói được. Ngay cả bây giờ tôi cũng không muốn nó quét qua thứ gì đó như một cơn bão, khiến những kẻ khác gầm lên còn to hơn và giơ tay ném những vật cứng, những thứ mà ngôn ngữ của tôi thậm chí không còn có thể nắm lấy và bắt được, nó đã luôn luôn, lỗi của tôi nữa, quá vụng về. Nó không bắt. Nó có thể ném, nhưng nó không thể bắt. Tôi vẫn bị giam cầm trong nó, ngay cả khi nó đã đi xa. Tôi là tù nhân của ngôn ngữ của mình, thứ cũng chính là cai ngục của tôi. Thật buồn cười, nó thậm chí còn không để mắt đến tôi. Bởi vì nó quá chắc chắn về tôi sao. Bởi vì nó quá chắc chắn rằng tôi sẽ không chạy trốn, có phải vì thế mà nó tin rằng nó có thể rời bỏ tôi không.
Có người đang đến, một kẻ đã chết từ lâu, và ông ta nói với tôi, dù điều đó vốn không được dự liệu cho ông ta. Ông ta được phép làm vậy, nhiều người chết giờ đây đang nói bằng những giọng nghẹn lại của họ, giờ họ dám làm thế, bởi vì chính ngôn ngữ của tôi không còn để mắt đến tôi nữa. Bởi vì nó biết rằng điều đó là không cần thiết. Ngay cả khi nó chạy trốn khỏi tôi, tôi cũng sẽ không tuột khỏi tay nó. Tôi ở trong tầm tay của nó, nhưng nó đã tuột khỏi tay tôi. Nhưng tôi vẫn ở lại. Nhưng thứ ở lại thì những người viết không làm ra. Thứ ở lại thì đã đi mất. Sự phóng túng của tưởng tượng đã bị cắt đứt. Không có gì và không có ai đã đến. Và nếu dẫu vậy, trái với mọi lẽ thường, có điều gì đó vốn hoàn toàn chưa từng đến, lại muốn ở lại một chút, thì thứ ở lại ấy, ngôn ngữ, thứ phù du nhất trong tất cả, đã biến mất. Nó đã trả lời một mẩu quảng cáo tuyển chỗ trống mới. Thứ lẽ ra phải ở lại thì luôn luôn đã đi rồi. Dù sao thì nó cũng không có mặt ở đó. Vậy thì đối với một người, còn lại điều gì.
