Diễn từ Nobel Văn học 1997 – Chống lại những kẻ tấu hài bị chế giễu, Dario Fo
Diễn từ Nobel văn học 1997 của Dario Fo không chỉ là bài phát biểu tri ân của tác giả khi nhận giải thưởng danh giá nhất trong làng văn chương thế giới.
| 33 phút đọc | lượt xem.
Diễn từ Nobel văn học không chỉ là bài phát biểu tri ân của những tác giả vĩ đại khi nhận giải thưởng danh giá nhất trong làng văn chương thế giới. Đó còn là những tuyên ngôn về nghệ thuật, về tầm nhìn triết học, về vai trò của văn chương trong đời sống tinh thần nhân loại. Qua từng diễn từ Nobel văn học, chúng ta không chỉ hiểu được con người của nhà văn mà còn nhận ra được mạch nguồn sáng tạo, nhận thức thời đại và trách nhiệm của người cầm bút với hiện thực xã hội.
Dưới đây là bản dịch Diễn từ Nobel Văn học 1997, chuyển ngữ trực tiếp từ nguyên văn lưu trữ tại Thư viện Nobel Prize. Ban biên tập ưu tiên sử dụng bản gốc của tác giả làm cơ sở dịch thuật, trong trường hợp văn bản được viết bằng ngôn ngữ phi Latin (như tiếng Nhật, tiếng Hàn…) thì sử dụng bản Diễn từ Nobel Văn học tiếng Anh chính thức do Nobel Prize công bố.
Tiểu sử tác giả Dario Fo – Giọng nói của kẻ bị áp bức
Dario Fo (1926 – 2016) là nhà viết kịch, diễn viên và đạo diễn sân khấu người Ý, được Viện Hàn lâm Thụy Điển trao giải Nobel Văn học năm 1997 với lý do bắt chước những gã hề thời Trung cổ trong việc roi mình quyền lực và duy trì phẩm giá của những người bị áp bức. Ông sinh ngày 24 tháng 3 năm 1926 tại Sangiano gần hồ Maggiore, vùng miền Bắc nước Ý, và qua đời vào ngày 13 tháng 10 năm 2016 tại Milan. Cuộc đời và sự nghiệp của Dario Fo là minh chứng cho sức mạnh của nghệ thuật khi nó được sử dụng như vũ khí chống lại bất công xã hội.
Tiểu sử và hành trình trở thành nhà văn đạt giải Nobel văn học
Dario Fo lớn lên trong một gia đình có truyền thống kể chuyện dân gian. Cha ông làm việc cho ngành đường sắt, còn ông nội là một nghệ nhân thủy tinh nổi tiếng trong vùng. Từ nhỏ, Fo đã được nuôi dưỡng bởi những câu chuyện dân gian phong phú, đặc biệt là truyền thống kể chuyện của các nghệ nhân và ngư dân ven hồ Maggiore. Môi trường văn hóa này đã hình thành nên phong cách sân khảu độc đáo của ông sau này. Fo ban đầu học kiến trúc tại Học viện Nghệ thuật Brera ở Milan, nhưng đam mê sân khấu đã dẫn dắt ông theo đuổi nghệ thuật biểu diễn. Trong những năm 1950, ông bắt đầu sự nghiệp với các tiểu phẩm hài kịch tại các sân khấu nhỏ và quán rượu ở Milan, dần dần xây dựng tên tuổi như một nghệ sĩ tài năng và táo bạo.
Năm 1954, Fo gặp và kết hôn với nữ diễn viên Franca Rame, người đã trở thành cộng sự trọn đời và có ảnh hưởng sâu sắc đến tác phẩm của ông. Cùng nhau, họ thành lập nhiều đoàn kịch, trong đó nổi bật nhất là Nuova Scena vào năm 1968 và Collettivo Teatrale La Comune năm 1970. Những đoàn kịch này không chỉ biểu diễn tại các nhà hát truyền thống mà còn đến tận nhà máy, công viên, trường học và thậm chí cả nhà tù, nhằm đưa nghệ thuật đến gần với tầng lớp lao động. Fo không ngại đối đầu với chính quyền, điều này khiến ông nhiều lần bị cảnh sát bắt giữ, bị kiểm duyệt tác phẩm, và thậm chí bị cấm nhập cảnh vào Hoa Kỳ từ năm 1980 đến năm 1984 vì những hoạt động chính trị của mình. Sự kiên trì và lòng dũng cảm của Fo đã biến ông thành biểu tượng của sự kháng cự nghệ thuật trước áp lực chính trị.
Việc nhận giải Nobel năm 1997 không chỉ là vinh dự cá nhân mà còn là sự công nhận đối với hình thức nghệ thuật sân khấu chính trị – một thể loại thường bị đánh giá thấp so với các thể loại văn học truyền thống. Khi biết tin đoạt giải, Fo đang trên đường đến Nhà hát ở Via di Porta Romana tại Milan để xem vợ mình biểu diễn. Ông bày tỏ sự ngạc nhiên và xúc động trước vinh dự này, đồng thời nhấn mạnh rằng đây là sự công nhận dành cho toàn bộ nghệ thuật sân khấu chính trị, không chỉ riêng cá nhân ông. Điều đáng chú ý là phản ứng trái chiều từ nhiều phía: trong khi giới trí thức Ý và quốc tế chào đón quyết định này, Vatican và một số nhà phê bình bảo thủ đã chỉ trích quyết định của Viện Hàn lâm Thụy Điển, cho rằng tác phẩm của Fo đầy tính báng bổ và gây tranh cãi.
Tác phẩm tiêu biểu và lý do đạt giải Nobel văn học
Dario Fo là tác giả của hơn 70 vở kịch, trong đó nhiều tác phẩm đã trở thành kinh điển của sân khấu thế giới. Vở kịch nổi tiếng nhất của ông là Mistero Buffo (Bí ẩn hề, 1969), một tiểu phẩm độc diễn dựa trên truyền thống hề trung cổ và các câu chuyện tôn giáo dân gian. Trong vở kịch này, Fo sử dụng grammelot – một ngôn ngữ sân khấu đặc biệt được tạo ra từ âm thanh, cử chỉ và các yếu tố phương ngữ, cho phép ông truyền đạt ý nghĩa mà không bị ràng buộc bởi ngôn ngữ cụ thể. Mistero Buffo đã được biểu diễn trên khắp châu Âu, châu Á, Canada và châu Mỹ Latinh trong suốt ba thập kỷ, và bị Hồng y Ugo Poletti của giáo phận Roma lên án là chương trình báng bổ nhất trong lịch sử truyền hình. Sự phản đối gay gắt này chỉ càng làm tăng sức hút của vở kịch, biến nó thành một biểu tượng của tự do ngôn luận và nghệ thuật.
Tác phẩm quan trọng khác của Fo là Morte accidentale di un anarchico (Cái chết ngẫu nhiên của một người vô chính phủ, 1970), một vở kịch châm biếm dựa trên sự kiện có thật về cái chết bí ẩn của Giuseppe Pinelli, một người vô chính phủ bị cảnh sát Milan thẩm vấn và rơi từ cửa sổ tầng năm năm 1969. Vở kịch này khám phá sự tham nhũng và lạm dụng quyền lực của chính quyền thông qua nhân vật Matto – kẻ điên có trí tuệ sắc bén, người vạch trần những lời nói dối của nhà nước. Morte accidentale di un anarchico đã trở thành một trong những vở kịch được dàn dựng nhiều nhất trên thế giới, với hơn 40 bản dịch và hàng nghìn buổi diễn. Tác phẩm Non si paga! Non si paga! (Không trả! Không trả!, 1974) là một vở hài kịch về cuộc nổi loạn của tầng lớp lao động đối với giá cả sinh hoạt tăng cao, phản ánh tình hình khủng hoảng kinh tế tại Ý vào thập niên 1970. Cụm từ Can’t Pay? Won’t Pay! từ bản dịch tiếng Anh đã trở thành thành ngữ phổ biến trong tiếng Anh, thể hiện thái độ phản kháng đối với sự bất công.
Dario Fo được trao giải Nobel không chỉ vì tài năng viết kịch mà còn vì cách ông sử dụng nghệ thuật như công cụ để thách thức quyền lực và bảo vệ phẩm giá của người bị áp bức. Viện Hàn lâm Thụy Điển đánh giá cao cách Fo kết hợp giữa tiếng cười và sự nghiêm túc, giữa hài kịch và bi kịch, để mở mắt công chúng nhìn thấy những lạm dụng và bất công trong xã hội. Tác phẩm của ông không chỉ giải trí mà còn giáo dục, không chỉ châm biếm mà còn kêu gọi hành động. Điều này khiến Fo trở thành một trong những nhà văn đạt giải Nobel văn học có tầm ảnh hưởng chính trị mạnh mẽ nhất trong lịch sử giải thưởng.
Sức ảnh hưởng của Dario Fo trên văn đàn thế giới
Dario Fo đã để lại dấu ấn sâu đậm trên sân khấu đương đại và nghệ thuật biểu diễn toàn cầu. Ông được coi là người hồi sinh truyền thống commedia dell’arte – một hình thức sân khấu hài kịch của Ý từ thế kỷ 16, đồng thời kết hợp nó với các yếu tố hiện đại và chính trị. Phong cách sân khấu của Fo đã ảnh hưởng đến hàng loạt nghệ sĩ và nhà viết kịch trên toàn thế giới, đặc biệt là những người quan tâm đến sân khấu chính trị và xã hội. Các đạo diễn như Peter Brook, Ariane Mnouchkine và nhiều nhà sân khấu Mỹ Latinh đã học hỏi từ kỹ thuật và triết lý nghệ thuật của Fo. Việc ông mang sân khấu ra khỏi không gian truyền thống và đưa nó đến với công nhân, nông dân, và những người bị gạt ra ngoài lề xã hội đã trở thành nguồn cảm hứng cho phong trào sân khấu cộng đồng và sân khấu đường phố ở nhiều quốc gia.
Về mặt văn học, Fo đã chứng minh rằng kịch bản sân khấu có thể sánh ngang với tiểu thuyết và thơ ca về mặt giá trị nghệ thuật và tư tưởng. Tác phẩm của ông thường được nghiên cứu trong các khoa văn học, chính trị học và xã hội học như những văn bản quan trọng để hiểu về lịch sử và văn hóa châu Âu thế kỷ 20. Đặc biệt, cách Fo sử dụng hài hước như vũ khí chống lại chủ nghĩa cực quyền và áp bức đã được các nhà nghiên cứu phân tích sâu rộng. Nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng khả năng của Fo trong việc biến những bi kịch xã hội thành hài kịch không hề làm giảm tính nghiêm trọng của vấn đề, mà ngược lại, nó giúp công chúng tiếp cận và hiểu rõ hơn về bản chất của quyền lực và sự tham nhũng.
Sau khi nhận giải Nobel, Fo đã trở thành biểu tượng quốc tế cho tự do ngôn luận và nghệ thuật kháng cự. Nhiều nhà hoạt động và nghệ sĩ trên thế giới đã viện dẫn tác phẩm của ông như nguồn cảm hứng trong các phong trào đấu tranh cho công bằng xã hội. Tuy nhiên, Fo không bao giờ tự mãn với thành công hay vinh dự. Cho đến những năm cuối đời, ông vẫn tiếp tục sáng tác và biểu diễn, luôn tìm cách đổi mới và thử nghiệm những hình thức nghệ thuật mới. Di sản của Dario Fo không chỉ là những vở kịch kinh điển mà còn là tinh thần dám đối mặt với quyền lực, dám nói lên sự thật, và tin tưởng vào khả năng thay đổi xã hội thông qua nghệ thuật – những bài học vô giá cho các thế hệ nhà văn đạt giải Nobel văn học và nghệ sĩ tương lai.
Chống lại những kẻ tấu hài bị chế giễu, Dario Fo
Against jesters who defame and insult. Luật do Hoàng đế Friedrich Đệ Nhị ban hành (1221, Messina), cho phép hành hung các anh hề mà không phải chịu bất kỳ hình phạt hay chế tài nào.
Những bảng tranh mà tôi đang trình bày với quý vị được tôi tự tay vẽ và tô màu.
Quý vị đã được phát các hình ảnh có kích thước nhỏ hơn một chút so với những bảng này.
Vâng, từ rất lâu rồi tôi có thói quen thực hiện các bài diễn thuyết bằng hình ảnh. Thay vì viết chúng ra, tôi vẽ chúng. Điều này cho phép tôi đi thẳng vào chủ đề, ứng biến, vận dụng trí tưởng tượng của mình và buộc quý vị phải vận dụng trí tưởng tượng của quý vị.
Trong khi tôi đọc những văn bản này, thỉnh thoảng tôi sẽ chỉ cho quý vị biết chúng ta đang ở đoạn nào, để quý vị không bị lạc mạch. Điều này đặc biệt hữu ích đối với những người không biết tiếng Ý cũng như tiếng Thụy Điển. Những người Anh sẽ có một lợi thế phi thường, bởi họ sẽ tưởng tượng ra những điều mà tôi chưa từng nói cũng chưa từng nghĩ tới. Ở đây có vấn đề của hai tiếng cười: những người hiểu tiếng Ý sẽ cười ngay lập tức; những người phải đợi bản dịch tiếng Thụy Điển của Anna (Anna Barsotti, người dịch, ghi chú của dịch giả) mới cười; và những người khác thì không biết nên cười ở câu đùa thứ nhất hay thứ hai. Dù sao đi nữa, chúng ta bắt đầu.
Tựa đề của buổi trò chuyện này là contra jogulatores obloquentes (Chống lại những kẻ tấu hài bị chế giễu) và quý vị đều hiểu rằng đó là tiếng Latin, tiếng Latin trung cổ. Đây là trang bìa của một đạo luật được ban hành năm 1221 tại Sicilia bởi Hoàng đế Friedrich Đệ Nhị xứ Schwaben, một kẻ được xức dầu của Chúa, người mà trong trường học người ta giới thiệu với chúng ta như một vị hoàng đế khai sáng phi thường, tự do. Giờ đây, qua những điều sắp được trình bày, chính quý vị sẽ phán xét xem vị người gần với Chúa này có thực sự là tự do hay không. Jogulatores obloquentes có nghĩa là những anh hề vu khống và lăng mạ. Đạo luật nói trên cho phép mọi công dân được quyền xúc phạm các anh hề, đánh đập họ và, nếu có chút căng thẳng thần kinh, thậm chí giết họ mà không phải đối mặt với bất kỳ vụ xét xử nào cùng bản án tương ứng. Tôi xin báo trước rằng đạo luật này đã bị bãi bỏ, vì thế tôi có thể tiếp tục, hoàn toàn yên tâm.
Thưa quý bà và quý ông…
Một số bạn bè tôi, những văn nhân, nghệ sĩ nổi tiếng, khi được báo chí và truyền hình phỏng vấn, đã tuyên bố: Giải thưởng cao quý nhất năm nay nhất định phải trao cho các Thành viên của Viện Hàn lâm Thụy Điển, những người đã có đủ dũng khí để trao Nobel cho một anh hề. Vâng, đúng vậy, hành động của quý vị thực sự là một hành động can đảm, gần như chạm tới sự khiêu khích.
Chỉ cần nhìn vào cơn hỗn loạn mà nó gây ra là đủ: những nhà thơ và tư tưởng gia cao siêu, vốn quen bay ở tầng cao và ít khi hạ mình để ý tới những kẻ sống sát mặt đất, đã ngay lập tức bị cuốn phăng bởi một cơn lốc xoáy dữ dội.
Vâng, tôi hoan nghênh và hoàn toàn đồng ý với họ.
Họ vốn đang an vị hạnh phúc trên đỉnh Parnassus của những kẻ được tuyển chọn, và quý vị, bằng sự ngạo mạn của mình, đã xô họ ngã nhào, khiến họ rơi xuống, đập mũi và bụng vào bùn lầy của sự bình thường.
Những tiếng gào thét và những lời chửi rủa khủng khiếp đã vang lên, nhắm vào Viện Hàn lâm Thụy Điển, các Thành viên của Viện và cả những người thân gần xa của họ cho tới bảy đời.
Những kẻ quá khích nhất đã gào lên: Đả đảo Nhà Vua… của Na Uy!
Trong cơn hỗn loạn, họ đã nhầm lẫn cả triều đại.
Tới đây quý vị có thể lật trang… quý vị sẽ thấy hình ảnh một nhà thơ trần truồng bị cuốn đi bởi một cơn lốc gió.
Một số người còn bị đánh trúng cả phần thấp hơn: đã có những nhà thơ và nhà văn lên những cơn khủng hoảng thần kinh và gan mật kinh hoàng. Trong những ngày đó, tại Ý, các hiệu thuốc không còn tìm thấy thuốc an thần.
Nhưng phải thừa nhận, nói thật lòng đi, thưa các Thành viên Viện Hàn lâm, lần này quý vị đã đi quá xa: nào, quý vị đã bắt đầu cách đây chừng 10 năm với việc trao giải cho một người da đen… một giải Nobel cho người da màu. Sau đó quý vị trao Nobel cho một người Do Thái… và bây giờ thì thậm chí cho một anh hề. Thế này là sao, như người Napoli nói, chúng ta phát điên rồi sao?
Ngay cả trong hàng giáo sĩ cấp cao cũng đã có những cơn điên loạn… chính các đại cử tri của Giáo hoàng: giám mục, hồng y, giáo sĩ của Opus Dei đã nổi cơn thịnh nộ. Đến mức họ yêu cầu khôi phục đạo luật cho phép thiêu sống các anh hề trên giàn hỏa, một việc tinh tế, với lửa nhỏ.
Trái lại, tôi phải nói với quý vị rằng đã có những đám đông phi thường những người vui mừng cùng tôi một cách khó tin trước lựa chọn của quý vị.
Và tôi xin gửi tới quý vị lời cảm ơn tưng bừng nhất từ một đoàn quân những kẻ diễn trò, những anh hề, những chú hề xiếc, những người biểu diễn rong, những người kể chuyện dân gian.
Chúng ta đã tới đây (trình bày một bảng tranh).
Và nhân nói về những người kể chuyện, tôi không thể quên những người fabulatori của quê hương tôi bên Hồ Maggiore, nơi tôi sinh ra và lớn lên, nơi có một truyền thống fabulatori vĩ đại; họ, những fabulatori già nua, những bậc thầy thổi thủy tinh, đã dạy tôi và những cậu bé khác nghề nghiệp, nghệ thuật kể những câu chuyện ngụ ngôn phi lý, mà chúng tôi lắng nghe, vừa cười khẩy vừa im lặng đột ngột đến nghẹt thở trước những ẩn dụ bi kịch bất chợt phủ lên mọi mỉa mai.
Tôi vẫn còn nhớ câu chuyện ngụ ngôn về Pháo đài Caldé.
Nhiều năm trước… – người thầy thổi thủy tinh kể – trên sống lưng dốc đứng của ngọn đồi nhô lên từ mặt hồ… trên đó có một ngôi làng tên là Caldé, ngày qua ngày trượt nguyên khối xuống đáy vực. Đó là một ngôi làng tuyệt đẹp với tháp chuông, với những ngọn tháp dựng ngay trên đỉnh, với những ngôi nhà nối tiếp nhau. Đó là một ngôi làng từng tồn tại nhưng nay không còn nữa: vào thế kỷ XV nó đã biến mất.
Ê này… – những người nông dân và ngư dân ở chân thung lũng hét lên – cẩn thận, các người đang sạt lở… rời khỏi đó đi.
Nhưng dân làng trên pháo đài không nghe, trái lại còn cười cợt, chế giễu: Khôn đấy, các người tìm cách dọa chúng tôi để bắt chúng tôi bỏ chạy, bỏ lại nhà cửa, ruộng đất cho các người chiếm đoạt. Chúng tôi không mắc lừa.
Và thế là họ tiếp tục tỉa nho, gieo hạt, cưới hỏi, yêu đương. Họ đi lễ. Họ cảm thấy tảng đá trượt dưới móng nhà… nhưng chẳng mấy bận tâm: Chỉ là những chuyển động ổn định bình thường thôi… họ tự trấn an.
Mảnh đá lớn đang chìm xuống hồ. Cẩn thận, chân các người đã ngập nước rồi, người ta hét từ bờ.
Không đâu, đó chỉ là nước thải từ các đài phun, chỉ hơi ẩm hơn thôi. Và cứ thế, chậm rãi nhưng không thể cưỡng lại, cả ngôi làng chìm xuống hồ.
Glu… glu… pluf… nhà cửa, đàn ông, đàn bà, hai con ngựa, ba con lừa… iaa… glu… vị linh mục vẫn không nao núng tiếp tục giải tội cho một nữ tu: Te absolvi… animus… santi… gluu… Aame… Glu…
Tháp biến mất, tháp chuông cùng những chiếc chuông chìm xuống: don… din… dop… plok…
Cho đến ngày nay – người thợ thổi thủy tinh già kể – nếu đứng trên mỏm đá còn sót lại dựng đứng ở đoạn hồ đó… nếu đúng lúc một cơn giông bùng nổ, tia chớp có thể chiếu sáng đáy nước và, thật không thể tin nổi, dưới đó người ta nhìn thấy ngôi làng đã chìm với những ngôi nhà và con đường còn nguyên vẹn, và như trong một máng cỏ sống, người ta thấy họ, những cư dân của Pháo đài xưa, vẫn còn cử động… và ngoan cố lặp lại: Không có chuyện gì xảy ra cả. Cá bơi qua trước mắt họ, từ bên này sang bên kia… thậm chí vào cả tai… Đừng sợ, chỉ là một loài cá đã học cách bơi trong không khí, họ bình luận. Hắt xì. Chúc sức khỏe. Cảm ơn… hôm nay hơi ẩm… ẩm hơn hôm qua… nhưng mọi thứ đều ổn. Họ đã chìm xuống… nhưng đối với họ thì tuyệt đối không có gì xảy ra.
Không thể phủ nhận rằng một câu chuyện ngụ ngôn như vậy đến hôm nay vẫn mang tính thời sự gây chấn động.
Tôi nhắc lại, tôi mang ơn rất nhiều những người thầy thổi thủy tinh ấy, và họ cũng vậy, tôi xin đảm bảo với quý vị, hôm nay vô cùng biết ơn quý vị, thưa các Thành viên Viện Hàn lâm, vì đã trao giải cho một học trò của họ.
Và họ thể hiện điều đó một cách điên cuồng, bùng nổ. Thật vậy, ở quê tôi người ta thề rằng vào đêm tin Nobel dành cho một người kể chuyện đồng hương được loan báo, đã vang lên một tiếng nổ khủng khiếp. Từ chiếc lò lớn của xưởng thủy tinh đã tắt từ 50 năm trước, một loạt dung nham rực lửa đã phun ra và vô số mảnh thủy tinh nóng chảy đầy màu sắc bắn vọt lên không trung như màn kết của pháo hoa… rồi rơi xuống hồ trong trạng thái đỏ rực, bốc hơi mù mịt.
Trong khi quý vị vỗ tay, tôi uống một chút nước; (quay sang người phiên dịch) bạn có muốn uống cùng không. Điều quan trọng là trong lúc chúng ta uống, quý vị hãy nói chuyện với nhau, bởi nếu cố nghe tiếng glu glu glu của nước chảy xuống thì chúng ta sẽ bị sặc và bắt đầu ho. Vì vậy hãy nói đi: Ồ, một buổi tối đẹp biết bao.
Hồi thứ hai: trang chín. Nhưng bây giờ tôi sẽ nói nhanh, xin đừng lo.
Trên hết, tối nay, lời cảm ơn long trọng và vang dội nhất được gửi tới quý vị từ một nghệ sĩ sân khấu phi thường của quê hương tôi, ít được biết đến không chỉ đối với quý vị và tại Pháp, Na Uy, Phần Lan… mà ngay cả tại Ý cũng không mấy ai biết đến. Nhưng ông chắc chắn là tác giả sân khấu vĩ đại nhất mà châu Âu từng có trong thời kỳ Phục hưng, thậm chí trước cả khi William Shakespeare xuất hiện.
Tôi đang nói tới Ruzzante Beolco (1502 – 1542), người thầy vĩ đại nhất của tôi bên cạnh Molière (1622 – 1673): cả hai đều là diễn viên – tác giả, cả hai đều bị những văn nhân tối cao của thời đại họ chế giễu. Bị khinh miệt, trên hết, bởi họ đưa lên sân khấu đời sống thường nhật, niềm vui và nỗi tuyệt vọng của người dân bình thường, sự đạo đức giả và thói kiêu căng của kẻ quyền thế, sự bất công thường trực. Và đặc biệt họ có một khuyết điểm khủng khiếp: họ kể những điều ấy bằng tiếng cười. Tiếng cười không làm hài lòng quyền lực.
Ruzzante, người cha đích thực của các diễn viên Hài kịch Nghệ thuật, đã tự tạo cho mình một ngôn ngữ, một từ vựng hoàn toàn mang tính sân khấu, được cấu thành từ nhiều ngữ idiom khác nhau: các phương ngữ của vùng Padania, những biểu đạt Latin, Tây Ban Nha, thậm chí cả Đức, pha trộn với những âm thanh tượng thanh hoàn toàn do ông sáng tạo. Từ ông, từ Beolco Ruzzante, tôi đã học cách giải phóng mình khỏi lối viết văn chương quy ước và biểu đạt bằng những từ ngữ để nhai, bằng những âm thanh khác thường, những nhịp điệu và hơi thở khác nhau, cho tới những đoạn lảm nhảm điên cuồng của grammelot.
Xin cho phép tôi được dành một phần của sự ghi nhận danh giá mà quý vị trao tặng cho tôi để kính dâng lên ông, Ruzzante.
Vài ngày trước, một diễn viên trẻ đầy tài năng đã nói với tôi: Thưa thầy, thầy phải tìm cách truyền năng lượng và nhiệt huyết của thầy cho giới trẻ. Nguồn năng lượng này thầy phải trao cho họ. Thầy phải trao cho người trẻ tri thức và sự tinh thông nghề nghiệp của thầy. Tôi và Franca (vợ tôi) nhìn nhau và nói: Cậu ấy nói đúng.
Nhưng khi chúng tôi dạy một nghề, trao một nguồn năng lượng sôi sục của trí tưởng tượng, thì rồi điều đó sẽ phục vụ cho điều gì, trí tưởng tượng ấy, sức sống ấy, nhiệt huyết ấy, nghề nghiệp ấy sẽ được hướng tới đâu.
Nhằm mục đích gì và hướng về điều gì mà phải phóng chiếu sức sống và nhiệt huyết.
Trong những tháng gần đây, tôi cùng Franca đã đi tới nhiều trường đại học để tổ chức các khóa thực hành và các buổi thuyết trình trước những khán phòng đầy sinh viên trẻ. Điều khiến chúng tôi ấn tượng nhất, gần như chấn động, là phát hiện ra sự thiếu hiểu biết của họ về chính thời đại mà chúng ta đang sống.
Chúng tôi kể cho họ nghe về phiên tòa đang diễn ra tại Thổ Nhĩ Kỳ chống lại những kẻ thực hiện vụ thảm sát tại Sivas. Ở Anatolia, 30 bảy trí thức dân chủ hàng đầu của đất nước, tụ họp để tưởng niệm một anh hề nổi tiếng của thời Trung Cổ Ottoman, đã bị thiêu sống, bị nhốt trong một khách sạn, giữa đêm khuya. Những kẻ châm lửa là một băng nhóm cuồng tín cực đoan được các thành phần trong chính quyền bảo vệ. Trong một đêm, 30 bảy trong số những nghệ sĩ, nhà văn, đạo diễn, diễn viên và nữ diễn viên quan trọng nhất, những vũ công nổi tiếng của nghi lễ Kurd, đã bị xóa sổ khỏi mặt đất. Chỉ trong một đòn, những kẻ cuồng tín ấy đã hủy diệt, có thể nói, những con người quan trọng nhất của nền văn hóa đất nước đó.
Hàng nghìn sinh viên lắng nghe câu chuyện của chúng tôi, nhìn chúng tôi sững sờ, không tin nổi. Họ không hề biết gì về cuộc thảm sát ấy. Điều khiến tôi choáng váng là ngay cả các giáo sư có mặt trong buổi nói chuyện cũng không biết gì. Vậy mà Thổ Nhĩ Kỳ ở đó, trong Địa Trung Hải, gần như đối diện với chúng ta, đang nỗ lực gia nhập Cộng đồng Kinh tế châu Âu… nhưng họ không biết gì về cuộc thảm sát ấy.
Một nhà dân chủ lớn của đất nước chúng tôi, Salvini, đã nói rất đúng: Sự ngu dốt lan rộng về các sự kiện là sự hậu thuẫn lớn nhất cho bất công. Nhưng sự vắng mặt lơ đãng này của giới trẻ xuất phát từ chính những người giáo dục và đáng lẽ phải cung cấp thông tin cho họ, và những người ấy lại là những kẻ vắng mặt và thiếu hiểu biết đầu tiên, tôi đang nói tới các thầy cô và những người chịu trách nhiệm về nhà trường.
Giới trẻ, phần lớn, bị khuất phục trước làn bom tấn của những điều tầm thường và dung tục vô cớ mà các phương tiện truyền thông đại chúng mỗi ngày ném vào họ: những phim truyền hình đẫm máu nơi trong 10 phút xảy ra ba vụ hiếp dâm, hai vụ giết người… một trận đánh đập và một vụ va chạm của 10 chiếc xe trên một cây cầu sập xuống, tất cả, xe cộ, tài xế và hành khách, rơi xuống biển… chỉ có một người sống sót, nhưng anh ta không biết bơi và chết đuối giữa tiếng cười của đám đông hiếu kỳ kéo đến.
Tại một trường đại học khác, chúng tôi đã lên án dự án, hiện đang được triển khai, về thao túng di truyền… tức là việc cấp bằng sáng chế cho các sinh vật sống, do Nghị viện châu Âu đề xuất… và chúng tôi cảm nhận một luồng băng giá dâng lên từ khán phòng. Tôi và Franca giải thích rằng các quan chức châu Âu của chúng ta, được kích thích bởi các tập đoàn đa quốc gia toàn năng và hiện diện khắp nơi, đang chuẩn bị một kế hoạch xứng đáng với một bộ phim khoa học viễn tưởng – đẫm máu mang tựa đề Người anh em heo của Frankenstein.
Họ muốn thông qua một chỉ thị cho phép các ngành công nghiệp được cấp bằng sáng chế cho các sinh vật sống, hoặc các bộ phận của chúng, được tạo ra bằng kỹ thuật của những kẻ học việc phù thủy gọi là thao túng di truyền.
Mọi chuyện sẽ diễn ra như sau: một nhà khoa học, bằng cách can thiệp vào bộ gen của một con heo, làm cho nó trở nên giống con người hơn, với kết quả gây choáng váng là nhờ sự sắp xếp này, việc lấy gan hoặc thận của nó… tùy chọn, để cấy ghép cho con người sẽ trở nên dễ dàng hơn. Nhưng để chắc chắn rằng các cơ quan được cấy ghép sẽ thích nghi, người ta sẽ phải đưa vào cơ thể con người những hạt của con heo nhằm điều kiện hóa và biến đổi cấu trúc của con người; như vậy cuối cùng chúng ta sẽ có một con người – heo (quý vị sẽ nói rằng chúng ta đã có rất nhiều rồi) hoặc một con heo – người… và mỗi bộ phận của sinh thể mới này đều có thể được cấp bằng sáng chế, áp đặt bản quyền; và bất kỳ ai muốn một mảnh của con heo được nhân hóa ấy sẽ phải trả tiền bản quyền cho ngành công nghiệp đã phát minh ra nó. Các bệnh lý phát sinh, những biến dạng quái dị, các chứng bệnh lây lan hàng loạt… tất cả đều là các tùy chọn đã bao gồm trong giá.
Giáo hoàng đã phẫn nộ trước thao tác này, trước sự quái dị di truyền của thứ phù thủy hạ đẳng này, và gọi nó là một điều ghê tởm chống lại nhân loại, chống lại phẩm giá con người; ngài đã lên án nó, nhắc rằng trong trường hợp này đạo đức đã bị dập tắt và bị hạ xuống dưới mức của loài vật.
Điều khó tin là cùng lúc đó lại có một người Mỹ, một phù thủy phi thường, chắc hẳn quý vị đã đọc trên báo: đó là kẻ chặt đầu một con khỉ đầu chó rồi lại chặt đầu một con khỉ đầu chó khác, lấy cái đầu thứ nhất và cái đầu thứ hai rồi hoán đổi cho nhau. Con khỉ đầu chó rơi vào tình trạng không ổn. Thực ra cả hai đều luôn bị liệt, rồi chết, nhưng thí nghiệm thì thành công một cách tuyệt vời. Điều khó tin là nhân vật này, tên là White, giáo sư White, trông hệt như Frankenstein. Ông White này là thành viên của Viện Hàn lâm Khoa học của Vatican. Cần phải báo cho Giáo hoàng biết.
Chúng tôi kể những trò hề tội ác này cho các em, cho sinh viên, và họ cười như điên: họ nói về tôi và Franca rằng: Thật dễ thương, họ bịa ra những câu chuyện không thể tin nổi; họ hoàn toàn không có, dù chỉ ở tiền phòng của bộ não, ý niệm rằng những điều chúng tôi kể là thật. Vì vậy chúng tôi càng tin chắc hơn, như Savinio (1891 – 1952), một nhà thơ Ý vĩ đại, đã kêu gọi: Hãy kể, hỡi con người, câu chuyện của các người.
Bổn phận của chúng tôi, những trí thức, những người đứng trên bục giảng hay trên sân khấu, những người nói chuyện chủ yếu với giới trẻ, không chỉ là dạy họ cách cử động cánh tay, cách thở để diễn, cách sử dụng dạ dày, giọng nói, giọng giả thanh, cú phản cảnh. Không đủ để dạy một phong cách: cần phải thông tin cho họ về những gì đang xảy ra xung quanh. Họ phải kể câu chuyện của chính họ. Một sân khấu, một nền văn học, một hình thức nghệ thuật không nói về thời đại của mình thì không tồn tại.
Gần đây tôi đã tới một đại hội lớn với rất đông người và cố gắng giải thích cho họ, đặc biệt là cho giới trẻ, về một vụ án đã diễn ra tại Ý, một vụ án phát triển thành bảy phiên tòa; kết thúc các phiên tòa ấy, ba chính trị gia cánh tả bị kết án 21 năm tù, bị cáo buộc đã sát hại một ủy viên cảnh sát. Tôi đã nghiên cứu hồ sơ vụ án như từng làm với Cái chết tình cờ của một kẻ vô chính phủ (Morte accidentale di un anarchico, 1970).
Tôi kể lại các sự kiện của vụ án phi lý này, thậm chí mang tính hề kịch trong cách nó được tiến hành, và đến một lúc tôi nhận ra mình đang nói vào khoảng không, bởi người nghe không biết gì về các tiền đề, không biết những gì đã xảy ra 5 năm trước, 10 năm trước: bạo lực, khủng bố, họ không biết gì cả; không biết về các vụ thảm sát nhà nước đã xảy ra tại Ý, không biết về những chuyến tàu bị nổ tung, không biết về những quả bom ở quảng trường, không biết về các phiên tòa được tiến hành như những trò hề.
Tai họa khủng khiếp là để kể câu chuyện của hôm nay, tôi phải bắt đầu kể câu chuyện từ 30 năm trước rồi mới đi tới hiện tại; không đủ để chỉ kể về bây giờ. Và hãy chú ý, điều này xảy ra ở khắp nơi, trên toàn châu Âu. Tôi đã thử ở Tây Ban Nha và cũng vậy, đã thử ở Pháp, đã thử ở Đức; tôi vẫn chưa thử ở đây, tại Thụy Điển của quý vị, nhưng tôi sẽ đến thử.
Và để kết thúc, xin cho phép tôi được dành một nửa tấm huy chương mà quý vị trao tặng cho Franca.
Franca Rame (1929 – 2013), người bạn đời và bạn đồng hành nghệ thuật của tôi, người mà quý vị, các Thành viên Viện Hàn lâm, đã nhắc tới trong lời tuyên dương giải thưởng với tư cách là diễn viên và tác giả, người đã cùng tôi viết nên nhiều văn bản của sân khấu chúng tôi.
Ngay lúc này Franca đang biểu diễn tại Ý, nhưng ngày kia cô ấy sẽ có mặt ở đây: cô ấy đến vào buổi trưa; nếu quý vị muốn, chúng ta có thể cùng nhau ra sân bay đón cô ấy. Franca rất dí dỏm, tôi xin đảm bảo. Với những nhà báo hỏi cô ấy: Thưa bà, bây giờ bà cảm thấy thế nào khi trở thành vợ của một người đoạt Nobel. Với một tượng đài trong nhà. cô ấy trả lời: Tôi không lo lắng, tôi không thấy khó chịu vì tôi đã luôn luyện tập. Mỗi sáng tôi đều chống đẩy: tôi cúi gập người, chống tay xuống đất, như vậy tôi đã quen với việc trở thành bệ đỡ cho tượng đài. Tôi làm việc đó rất giỏi.
Tôi đã nói với quý vị rằng cô ấy rất dí dỏm… và đôi khi thậm chí tự làm tổn thương mình bằng sự mỉa mai. Nhưng thực sự, nếu không có cô ấy bên cạnh tôi suốt cuộc đời, cá nhân tôi sẽ không bao giờ có thể xứng đáng với giải thưởng này. Cùng nhau, chúng tôi đã dựng và biểu diễn hàng nghìn vở diễn trong các nhà hát, nhà máy bị chiếm đóng, các trường đại học đang đấu tranh… thậm chí trong những nhà thờ đã bị giải thiêng, trong nhà tù, ngoài quảng trường dưới nắng và mưa, luôn luôn cùng nhau. Chúng tôi đã chịu đựng những sự sách nhiễu, những cuộc trấn áp của cảnh sát, những lời xúc phạm của những kẻ đạo mạo và bạo lực. Và trên hết, chính cô ấy, Franca, là người đã phải chịu đựng cuộc tấn công tàn bạo nhất. Cô ấy, hơn bất cứ ai, trên chính thân thể mình, đã trả giá cho sự đoàn kết mà chúng tôi dành cho những người thấp cổ bé họng và những kẻ bị đánh bại.
Ngày tôi được chỉ định nhận Nobel, tôi đang đứng trước nhà hát trên phố Porta Romana ở Milano, nơi Franca đang biểu diễn cùng Giorgio Albertazzi (1923 – 2016) vở Con quỷ với đôi vú (Il diavolo con le zinne, 1998). Ngay lập tức một đám đông phóng viên ảnh, ký giả, người quay phim với máy quay của họ kéo đến. Một chiếc xe điện đang chạy qua lúc đó đã dừng lại, người lái thò người ra chào tôi, tất cả hành khách xuống xe, họ vỗ tay, muốn bắt tay tôi để chúc mừng… nhưng rồi họ chững lại và đồng thanh hét lên: Franca đâu rồi và họ gọi lớn Francaaa, và sau một lúc cô ấy xuất hiện… bối rối… xúc động đến rơi nước mắt, và đến ôm chầm lấy tôi.
Đột nhiên, như từ hư không, xuất hiện một ban nhạc chỉ gồm kèn hơi với trống, toàn là những người trẻ, chạy tới từ nhiều điểm khác nhau của thành phố, những nhạc công lần đầu tiên chơi cùng nhau, họ cất lên bài Porta Romana bella, Porta Romana theo nhịp samba. Tôi chưa bao giờ nghe sự chênh phô nào như thế, nhưng đó là âm nhạc đẹp nhất mà Franca và tôi từng được nghe.
Xin hãy tin tôi, giải thưởng này, quý vị đã thực sự trao cho cả hai chúng tôi.
Xin cảm ơn.
