Diễn từ Nobel Văn học 1998 – Làm thế nào các nhân vật trở thành bậc thầy và tác giả trở thành người học việc của họ, José Saramago

Diễn từ Nobel văn học 1998 của José Saramago không chỉ là bài phát biểu tri ân của tác giả khi nhận giải thưởng danh giá nhất trong làng văn chương thế giới.

| 45 phút đọc | lượt xem.

Diễn từ Nobel Văn học 1998 – Làm thế nào các nhân vật trở thành bậc thầy và tác giả trở thành người học việc của họ, José Saramago

Diễn từ Nobel văn học không chỉ là bài phát biểu tri ân của những tác giả vĩ đại khi nhận giải thưởng danh giá nhất trong làng văn chương thế giới. Đó còn là những tuyên ngôn về nghệ thuật, về tầm nhìn triết học, về vai trò của văn chương trong đời sống tinh thần nhân loại. Qua từng diễn từ Nobel văn học, chúng ta không chỉ hiểu được con người của nhà văn mà còn nhận ra được mạch nguồn sáng tạo, nhận thức thời đại và trách nhiệm của người cầm bút với hiện thực xã hội.

Dưới đây là bản dịch Diễn từ Nobel Văn học 1998, chuyển ngữ trực tiếp từ nguyên văn lưu trữ tại Thư viện Nobel Prize. Ban biên tập ưu tiên sử dụng bản gốc của tác giả làm cơ sở dịch thuật, trong trường hợp văn bản được viết bằng ngôn ngữ phi Latin (như tiếng Nhật, tiếng Hàn…) thì sử dụng bản Diễn từ Nobel Văn học tiếng Anh chính thức do Nobel Prize công bố.

Tiểu sử tác giả José Saramago – Bậc thầy ngụ ngôn hiện đại

José Saramago (1922 – 2010) là tiểu thuyết gia người Bồ Đào Nha, được trao giải Nobel Văn học năm 1998 với lý do người mà với những ngụ ngôn được duy trì bởi trí tưởng tượng, lòng thương cảm và sự mỉa mai, liên tục giúp chúng ta nhận thức lại một thực tại khó nắm bắt. Ông sinh ngày 16 tháng 11 năm 1922 tại Azinhaga, một làng nhỏ thuộc tỉnh Ribatejo, và qua đời ngày 18 tháng 6 năm 2010 tại Lanzarote, quần đảo Canary, Tây Ban Nha. Saramago là nhà văn đạt giải Nobel văn học đầu tiên và duy nhất viết bằng tiếng Bồ Đào Nha, và ông được coi là một trong những giọng văn quan trọng nhất của văn học châu Âu thế kỷ 20.

Tiểu sử và con đường văn chương gian nan

José Saramago sinh ra trong một gia đình nông dân nghèo không có đất đai. Cha ông, José de Sousa, và mẹ ông, Maria da Piedade, phải vật lộn với cuộc sống khó khăn. Tên họ Saramago – có nghĩa là một loại cỏ dại mọc hoang dùng làm thức ăn cho người nghèo – thực ra là biệt danh của gia đình cha ông, nhưng được viên chức đăng ký hộ tịch tự ý thêm vào giấy khai sinh. Saramago chỉ phát hiện ra điều này khi lên bảy tuổi, khi phải xuất trình giấy tờ để vào trường tiểu học. Tuổi thơ của Saramago được chia giữa Lisbon, nơi gia đình ông chuyển đến để tìm kiếm cơ hội tốt hơn, và Azinhaga, nơi ông thường ở cùng ông bà ngoại Jerónimo Meirinho và Josefa Caixinha – cả hai đều mù chữ. Dù là học sinh giỏi, Saramago phải bỏ học trung học vì hoàn cảnh gia đình không đủ điều kiện, và ông chuyển sang học nghề sửa chữa ô tô tại một trường kỹ thuật.

Trong nhiều năm, Saramago làm đủ nghề để kiếm sống: thợ máy, công nhân luyện kim, công chức hành chính, và sau đó là biên tập viên và dịch giả. Năm 1944, ông kết hôn với Ilda Reis, một nhân viên đánh máy sau này trở thành một trong những họa sĩ khắc Bồ Đào Nha quan trọng nhất. Họ có một con gái tên Violante sinh năm 1947. Cùng năm đó, Saramago xuất bản tiểu thuyết đầu tiên của mình, nhưng tác phẩm không thu hút được nhiều sự chú ý. Trong suốt 19 năm tiếp theo, từ 1947 đến 1966, ông gần như im lặng trên văn đàn, vì nhận ra rằng mình chưa có gì thực sự quan trọng để nói. Giai đoạn này là thời kỳ trầm lặng cần thiết để Saramago tích lũy kinh nghiệm sống và rèn giũa tư tưởng.

Năm 1969, Saramago gia nhập Đảng Cộng sản Bồ Đào Nha, một quyết định phản ánh niềm tin chính trị cấp tiến của ông. Năm 1974, sau cuộc Cách mạng Cẩm chướng lật đổ chế độ độc tài Salazar, ông trở thành trưởng ban biên tập tờ báo Diário de Notícias. Tuy nhiên, sau phản công của phe bảo thủ năm 1975, Saramago mất công việc vì quan điểm chính trị của mình. Đây là thời điểm quan trọng, khi ông quyết định dành toàn bộ thời gian cho sáng tác văn học. Từ độ tuổi 50, Saramago bắt đầu viết những tiểu thuyết đã đưa ông trở thành một trong những nhà văn đạt giải Nobel văn học vĩ đại nhất. Bước ngoặt đến năm 1982 với Memorial do Convento (Ký ức Tu viện, bản tiếng Anh: Baltasar and Blimunda, 1982), tác phẩm mang lại thành công quốc tế cho ông. Năm 1998, khi vợ đầu tiên qua đời, Saramago đã kết hôn với nhà báo và dịch giả người Tây Ban Nha Pilar del Río, người đồng hành cùng ông cho đến những ngày cuối đời.

Phong cách viết độc đáo và lý do đạt giải Nobel văn học

José Saramago nổi tiếng với phong cách viết độc đáo và dễ nhận diện: các câu văn dài ngoằn ngoèo có thể kéo dài hàng trang, ít dùng dấu câu, và xóa nhòa ranh giới giữa đối thoại và tường thuật. Ông không sử dụng dấu ngoặc kép cho lời thoại mà chỉ dùng dấu phẩy và chữ hoa để báo hiệu khi nhân vật bắt đầu nói. Kỹ thuật này tạo ra dòng chảy liên tục của ý thức và suy nghĩ, khiến người đọc cảm thấy như đang trôi theo dòng suy tư của chính tác giả. Phong cách này vừa đòi hỏi sự tập trung cao độ của người đọc, vừa tạo ra trải nghiệm văn học phong phú và sâu sắc. Nhiều nhà phê bình so sánh lối viết của Saramago với Marcel Proust và James Joyce, nhưng ông có một giọng văn riêng biệt, pha trộn giữa sự khôn ngoan và vô tri, giữa sự ấm áp và mỉa mai.

Tác phẩm tiêu biểu của Saramago thường sử dụng ngụ ngôn và các yếu tố kỳ ảo để phê phán xã hội và khám phá bản chất con người. Memorial do Convento (Baltasar and Blimunda, 1982) kể về mối tình giữa một người lính tàn phế và một người phụ nữ có khả năng nhìn thấu lòng người, đan xen với việc xây dựng Tu viện Mafra bởi hàng nghìn lao động cưỡng bức dưới thời vua João V. Tiểu thuyết này là sự kết hợp hoàn hảo giữa lịch sử và tưởng tượng, giữa hiện thực tàn khốc và ước mơ siêu việt. O Evangelho Segundo Jesus Cristo (Tin lành theo Chúa Giê – su, 1991) là tác phẩm gây tranh cãi nhất của Saramago, trong đó ông tái hiện cuộc đời Chúa Giê – su từ góc nhìn con người, với những ham muốn và hoài nghi. Chúa Giê – su trong tiểu thuyết này sống chung với Maria Magdalena và cố gắng tránh né việc bị đóng đinh. Tác phẩm này bị Vatican chỉ trích gay gắt, và chính phủ Bồ Đào Nha đã cản trở việc đề cử nó cho một giải văn học châu Âu năm 1992, khiến Saramago quyết định tự lưu vong sang quần đảo Canary.

Ensaio Sobre a Cegueira (Tiểu luận về sự mù lòa, bản tiếng Anh: Blindness, 1995) có lẽ là tác phẩm nổi tiếng nhất của Saramago trên phạm vi toàn cầu. Tiểu thuyết kể về một dịch mù lòa bí ẩn tấn công toàn bộ dân cư một thành phố, ngoại trừ một người phụ nữ duy nhất. Khi xã hội sụp đổ và con người mất đi khả năng nhìn, bản chất thật của họ được phơi bày – cả tốt lẫn xấu. Đây là một ngụ ngôn sâu sắc về sự mù quáng đạo đức và tâm linh của nhân loại hiện đại. Tác phẩm đã được chuyển thể thành phim năm 2008 với sự đạo diễn của Fernando Meirelles. Viện Hàn lâm Thụy Điển ca ngợi Saramago vì khả năng sử dụng ngụ ngôn được duy trì bởi trí tưởng tượng, lòng thương cảm và sự mỉa mai để giúp chúng ta nhận thức lại thực tại. Tác phẩm của ông không chỉ giải trí mà còn thách thức người đọc phải suy ngẫm về những vấn đề căn bản của con người và xã hội.

Ảnh hưởng toàn cầu của Saramago đối với văn học đương đại

José Saramago đã có tác động sâu rộng đến văn học thế giới, đặc biệt là trong việc nâng cao vị thế của văn học tiếng Bồ Đào Nha trên trường quốc tế. Trước khi ông nhận giải Nobel, văn học Bồ Đào Nha ít được biết đến ngoài phạm vi các nước nói tiếng Bồ hoặc Tây Ban Nha. Thành công của Saramago đã mở đường cho nhiều tác giả Bồ Đào Nha và Brasil tiếp cận độc giả toàn cầu. Năm 1999, Giải thưởng Văn học José Saramago được thành lập nhằm vinh danh các tác giả trẻ viết bằng tiếng Bồ Đào Nha, thể hiện di sản giáo dục và khuyến khích của ông đối với thế hệ sau. Quỹ José Saramago, được thành lập năm 2007, tiếp tục công việc bảo vệ Tuyên ngôn Nhân quyền Thế giới, thúc đẩy văn hóa và bảo vệ môi trường – những giá trị mà Saramago luôn ủng hộ.

Về mặt kỹ thuật văn học, phong cách độc đáo của Saramago đã ảnh hưởng đến nhiều nhà văn đương đại, đặc biệt là những người quan tâm đến việc phá vỡ các quy ước tường thuật truyền thống. Cách ông xử lý thời gian, không gian và ý thức trong văn xuôi đã trở thành chủ đề nghiên cứu rộng rãi trong giới học thuật. Các nhà phê bình như Harold Bloom đã ca ngợi Saramago là nhà tiểu thuyết tài năng nhất còn sống trên thế giới vào năm 2003, và cho rằng ông là một phần vĩnh viễn của kinh điển phương Tây. James Wood, nhà phê bình văn học nổi tiếng, đánh giá cao giọng điệu độc đáo trong tiểu thuyết của ông vì cách ông tường thuật như thể là người vừa khôn ngoan vừa vô tri.

Ngoài ảnh hưởng văn học, Saramago còn là một nhà hoạt động chính trị và xã hội tích cực. Ông công khai ủng hộ chủ nghĩa cộng sản tự do, bảo vệ quyền con người và phê phán các chính sách bất công. Quan điểm vô thần của ông và những phê phán gay gắt đối với Giáo hội Công giáo đã gây tranh cãi, nhưng cũng khiến ông trở thành biểu tượng cho tự do tư tưởng. Sau khi qua đời năm 2010, Saramago được tưởng nhớ không chỉ như một nhà văn đạt giải Nobel văn học vĩ đại mà còn như một trí thức dũng cảm, người không ngại đặt câu hỏi khó và bảo vệ những giá trị nhân văn cốt lõi. Di sản của ông tiếp tục sống động qua hàng triệu độc giả trên toàn thế giới, những người tìm thấy trong tác phẩm của ông cả sự giải trí lẫn trí tuệ sâu sắc.

Làm thế nào các nhân vật trở thành bậc thầy và tác giả trở thành người học việc của họ, José Saramago

Người đàn ông thông thái nhất mà tôi từng biết trong suốt cuộc đời mình không biết đọc cũng không biết viết. Lúc bốn giờ sáng, khi lời hứa về một ngày mới vẫn còn ở trên những miền đất của nước Pháp, ông rời khỏi tấm phản rơm và ra đồng, lùa ra bãi chăn nửa tá lợn nái, nguồn sinh kế nuôi sống ông và vợ. Ông bà ngoại tôi sống từ sự thiếu thốn ấy, từ đàn lợn nhỏ mà sau khi cai sữa thì bán cho những người hàng xóm trong làng, tên là Azinhaga, thuộc tỉnh Ribatejo. Hai ông bà ấy tên là Jerónimo Melrinho và Josefa Caixinha, và cả hai đều mù chữ. Vào mùa Đông, khi cái lạnh ban đêm siết chặt đến mức nước trong những vò gốm đông lại ngay trong nhà, họ mang những con lợn con yếu nhất từ chuồng vào giường ngủ của mình. Dưới những tấm chăn thô ráp, hơi ấm của con người cứu các con vật nhỏ khỏi giá rét và khỏi cái chết chắc chắn. Dù là những con người có tính nết tốt, nhưng không phải vì những tinh tế của một tâm hồn trắc ẩn mà hai ông bà già ấy làm như vậy. Điều khiến họ lo lắng, không cảm tính cũng không tu từ, là bảo vệ kế sinh nhai của mình, với sự tự nhiên của những người, để duy trì sự sống, đã không học cách suy nghĩ nhiều hơn mức cần thiết.

Tôi đã nhiều lần giúp ông ngoại Jerónimo trong những chuyến chăn dắt của ông, nhiều lần cuốc đất mảnh vườn nhỏ liền kề ngôi nhà và chặt củi cho bếp lửa. Nhiều lần, quay đi quay lại bánh xe sắt lớn vận hành chiếc bơm, tôi kéo nước từ giếng chung lên và vác trên vai mang về. Nhiều lần, lén tránh những người gác đồng, tôi cùng bà ngoại, cũng vào lúc rạng sáng, mang theo cào, rá và dây thừng, đi gom những cọng rơm rạ rơi vãi trên gốc rạ để sau đó dùng làm ổ nằm cho gia súc. Và đôi khi, trong những đêm hè nóng nực, sau bữa tối, ông tôi nói với tôi: José, hôm nay hai ông cháu ta sẽ ngủ dưới gốc sung. Còn hai cây sung khác nữa, nhưng cây ấy, hẳn vì là cây lớn nhất, cổ nhất, cây từ bao đời, đối với mọi người trong nhà, chính là cây sung. Gần như theo phép hoán dụ, một từ ngữ bác học mà mãi nhiều năm sau tôi mới biết đến và hiểu được ý nghĩa của nó…

Giữa sự yên bình của đêm tối, trong những cành cao của cây, một ngôi sao hiện ra trước mắt tôi, rồi chầm chậm ẩn sau một chiếc lá, và khi tôi nhìn sang hướng khác, giống như một dòng sông lặng lẽ chảy trên bầu trời lõm, ánh sáng óng ánh của Dải Ngân Hà hiện lên, Con Đường Thánh Giacôbê, như chúng tôi vẫn gọi ở làng. Trong khi giấc ngủ chưa đến, đêm tối đầy ắp những câu chuyện và giai thoại mà ông tôi kể: truyền thuyết, hiện hình, ma quái, những sự việc kỳ lạ, những cái chết xưa cũ, những trận ẩu đả bằng gậy gộc và đá sỏi, lời nói của tổ tiên, một tiếng rì rầm không mệt mỏi của ký ức khiến tôi thức giấc, đồng thời lại dịu dàng ru tôi. Tôi chưa bao giờ biết liệu ông có im lặng khi nhận ra tôi đã ngủ hay không, hay ông vẫn tiếp tục nói để không bỏ dở câu trả lời cho câu hỏi mà tôi luôn luôn đặt ra trong những khoảng ngừng lâu hơn mà ông cố ý tạo ra trong câu chuyện: Rồi sao nữa? Có lẽ ông lặp lại những câu chuyện cho chính mình, hoặc để không quên, hoặc để làm giàu thêm bằng những tình tiết mới. Ở độ tuổi ấy của tôi và vào thời ấy của tất cả chúng tôi, hẳn không cần phải nói rằng tôi tưởng tượng ông ngoại Jerónimo nắm giữ toàn bộ tri thức của thế gian.

Khi ánh sáng đầu tiên của buổi sáng và tiếng chim hót đánh thức tôi, ông đã không còn ở đó nữa, ông đã ra đồng với đàn vật nuôi, để tôi ngủ lại. Tôi thức dậy, gấp chăn, và chân trần (ở làng tôi luôn đi chân đất cho đến năm 14 tuổi), tóc còn vướng rơm rạ, đi từ phần đất trồng trọt của khu vườn sang phía có các chuồng lợn bên cạnh nhà. Bà ngoại tôi, đã dậy trước ông, đặt trước mặt tôi một bát lớn cà phê với những mẩu bánh mì và hỏi tôi có ngủ ngon không. Nếu tôi kể cho bà nghe một giấc mơ xấu nảy sinh từ những câu chuyện của ông, bà luôn trấn an tôi: Đừng để tâm, trong mơ không có sự vững chắc. Khi ấy tôi nghĩ rằng bà tôi, dù cũng là một người phụ nữ rất thông thái, vẫn chưa đạt tới những tầm cao của ông tôi, người mà khi nằm dưới gốc sung, có đứa cháu José bên cạnh, có thể làm cho vũ trụ chuyển động chỉ bằng hai lời. Chỉ nhiều năm sau, khi ông tôi đã rời khỏi thế gian này và tôi đã là một người trưởng thành, tôi mới hiểu rằng bà ngoại, rốt cuộc, cũng tin vào những giấc mơ. Không thể có nghĩa nào khác việc một đêm nọ, khi bà ngồi trước cửa căn nhà nghèo nàn của mình, nơi khi ấy bà sống một mình, nhìn những vì sao lớn nhỏ trên đầu, bà đã nói những lời này: Thế giới đẹp quá, và ta buồn vì phải chết. Bà không nói sợ chết, bà nói buồn vì phải chết, như thể cuộc đời lao động nặng nhọc và liên tục của bà, vào khoảnh khắc gần cuối ấy, nhận được ân huệ của một lời từ biệt tối thượng và sau cùng, sự an ủi của vẻ đẹp được mặc khải.

Bà ngồi trước cửa một ngôi nhà mà tôi không tin rằng đã từng có một ngôi nhà nào khác như thế trên thế gian, bởi trong đó từng sống những con người có thể ngủ cùng lợn như thể chúng là con của mình, những con người buồn vì phải rời khỏi cuộc sống chỉ vì thế giới đẹp, những con người, và đây là ông ngoại Jerónimo của tôi, người chăn lợn và người kể chuyện, khi cảm thấy cái chết đến đón mình, đã đi từ giã từng cây trong khu vườn của ông, từng cây một, ôm lấy chúng và khóc vì biết rằng sẽ không còn được gặp lại chúng nữa.

Nhiều năm sau, khi lần đầu tiên viết về ông ngoại Jerónimo và bà ngoại Josefa của tôi (tôi quên nói rằng, theo lời của những ai từng biết bà khi còn trẻ, bà có một vẻ đẹp hiếm có), tôi ý thức được rằng mình đang biến những con người bình thường mà họ đã từng là thành những nhân vật văn học, và rằng đó có lẽ là cách để không quên họ, vẽ đi vẽ lại khuôn mặt họ bằng cây bút chì luôn đổi thay của ký ức, tô màu và chiếu sáng sự đơn điệu của một đời sống thường nhật xám xịt và vô chân trời, như thể tái tạo, trên tấm bản đồ bất ổn của trí nhớ, cái phi thực siêu nhiên của một đất nước mà tôi đã quyết định đến sống. Cùng một trạng thái tinh thần ấy, sau khi gợi lại hình ảnh hấp dẫn và bí ẩn của một cụ tổ người Berber nào đó, đã dẫn tôi đến việc mô tả, đại khái như thế này, một bức chân dung cũ (nay đã gần 80 năm) trong đó cha mẹ tôi xuất hiện: Cả hai đứng thẳng, đẹp và trẻ, đối diện với nhiếp ảnh gia, trên khuôn mặt là một vẻ nghiêm trang long trọng, có lẽ là nỗi e dè trước chiếc máy ảnh, vào khoảnh khắc ống kính sắp cố định, ở người này và người kia, hình ảnh mà họ sẽ không bao giờ còn có lại nữa, bởi ngày hôm sau sẽ không thương xót mà là một ngày khác… Mẹ tôi chống khuỷu tay phải lên một cột cao và cầm ở tay trái, buông dọc theo thân người, một bông hoa. Cha tôi vòng tay ra sau lưng mẹ tôi và bàn tay chai sạn của ông hiện lên trên vai bà như một cánh. Cả hai đứng dè dặt trên một tấm thảm hoa lá. Tấm phông làm nền giả cho bức chân dung cho thấy những kiến trúc tân cổ điển mờ nhạt và không tương hợp. Và tôi kết lại: Một ngày nào đó phải đến lúc tôi kể những điều này. Tất cả những điều ấy không có tầm quan trọng nào, trừ đối với tôi. Một ông nội Berber đến từ Bắc Phi, một ông nội khác chăn lợn, một bà nội đẹp kỳ diệu, những bậc cha mẹ nghiêm nghị và xinh đẹp, một bông hoa trong bức chân dung – còn có gia phả nào khác có thể quan trọng đối với tôi? Tôi sẽ tựa vào cây nào cho tốt hơn?

Tôi đã viết những lời này gần 30 năm trước, không với ý định nào khác ngoài việc tái tạo và ghi lại những khoảnh khắc trong đời sống của những con người đã sinh thành ra tôi và đã ở gần tôi nhất, nghĩ rằng không cần giải thích gì thêm để người ta biết tôi đến từ đâu và những chất liệu nào đã làm nên con người mà tôi khởi đầu là và con người mà dần dần tôi đã trở thành. Rốt cuộc, tôi đã lầm, sinh học không quyết định tất cả, và về di truyền học, hẳn những con đường của nó đã rất bí ẩn để có thể đi một vòng xa đến thế… Cây gia phả của tôi (xin được tha thứ cho sự tự phụ khi gọi nó như vậy, khi nhựa sống của nó quá nghèo nàn) không chỉ thiếu một vài nhánh mà thời gian và những cuộc gặp gỡ liên tiếp của đời sống vẫn làm bật ra từ thân cây trung tâm, mà còn thiếu những ai giúp cho rễ của nó ăn sâu đến những tầng ngầm sâu nhất, những ai tinh lọc độ bền và hương vị của quả, những ai mở rộng và làm mạnh thêm tán cây để nó trở thành nơi trú ẩn cho chim di cư và chỗ che chở cho tổ chim.

Khi tôi vẽ cha mẹ và ông bà mình bằng những màu sắc của văn chương, biến họ từ những con người bằng xương bằng thịt mà họ từng là thành những nhân vật, một lần nữa và theo cách khác, xây dựng đời sống của tôi, tôi đã, mà không nhận ra, vạch ra con đường mà những nhân vật tôi sẽ sáng tạo, những nhân vật khác, thực sự mang tính văn học, sẽ đi theo để chế tạo và mang đến cho tôi những vật liệu và công cụ mà, rốt cuộc, trong cái tốt và cái kém, trong cái đủ và cái thiếu, trong cái được và cái mất, trong những gì là khiếm khuyết nhưng cũng trong những gì là dư thừa, sẽ làm nên con người mà hôm nay tôi nhận ra mình: người sáng tạo ra những nhân vật ấy, nhưng đồng thời cũng là sinh vật của chúng. Ở một nghĩa nào đó, thậm chí có thể nói rằng, từng chữ một, từng từ một, từng trang một, từng cuốn sách một, tôi đã lần lượt cấy ghép vào con người mà tôi từng là những nhân vật mà tôi đã tạo ra. Tôi tin rằng, nếu không có họ, tôi sẽ không là con người như hôm nay, nếu không có họ, có lẽ đời sống của tôi đã không đạt được hơn một phác thảo mơ hồ, một lời hứa như bao lời hứa khác đã không vượt qua được mức lời hứa, sự tồn tại của một người có lẽ đã có thể trở thành nhưng rốt cuộc đã không trở thành.

Giờ đây tôi có thể nhìn rõ ai là những người thầy của đời tôi, những người đã dạy tôi một cách mãnh liệt nhất nghề sống gian khổ, những hàng chục nhân vật tiểu thuyết và kịch mà lúc này tôi thấy đang diễu qua trước mắt mình, những người đàn ông và đàn bà làm bằng giấy và mực, những con người mà tôi từng tin rằng mình đang dẫn dắt theo những thuận tiện của người kể chuyện và tuân theo ý chí của tác giả, như những con rối khớp nối mà hành động của chúng không thể có ảnh hưởng nào khác đối với tôi ngoài sức nặng chịu đựng và sự căng của những sợi dây mà tôi dùng để điều khiển chúng. Trong số những người thầy ấy, người đầu tiên, không nghi ngờ gì, là một họa sĩ vẽ chân dung tầm thường mà tôi chỉ gọi đơn giản bằng chữ H., nhân vật chính của một câu chuyện mà tôi cho là hợp lý khi gọi là sự khai tâm kép (của ông ta, nhưng cũng, theo một cách nào đó, của tác giả cuốn sách), mang nhan đề Cẩm nang hội họa và thư pháp (Manual de Pintura e Caligrafia, 1977), người đã dạy tôi sự trung thực căn bản của việc thừa nhận và chấp nhận, không oán giận cũng không thất vọng, những giới hạn của chính mình: không thể và cũng không khao khát phiêu lưu vượt ra ngoài mảnh đất canh tác nhỏ bé của mình, tôi chỉ còn khả năng đào sâu xuống, hướng xuống dưới, về phía những rễ cây. Rễ của tôi, nhưng cũng là rễ của thế giới, nếu tôi có thể cho phép mình một tham vọng quá mức như vậy. Không phải tôi, dĩ nhiên, là người đánh giá giá trị của kết quả những nỗ lực đã bỏ ra, nhưng tôi tin rằng hôm nay đã rõ ràng rằng toàn bộ công việc của tôi, từ đó trở đi, đã tuân theo mục đích và nguyên tắc ấy.

Sau đó đến những người đàn ông và đàn bà của vùng Alentejo, chính là tình huynh đệ của những kẻ bị đất đai kết án mà ông ngoại Jerónimo và bà ngoại Josefa của tôi đã thuộc về, những nông dân thô ráp buộc phải cho thuê sức lực cánh tay để đổi lấy một đồng lương và những điều kiện lao động chỉ xứng đáng mang tên đê tiện, bán rẻ mạng sống mà những con người có học và văn minh như chúng ta vẫn tự hào gọi, tùy lúc, là quý giá, thiêng liêng hay cao cả. Những con người bình dân mà tôi đã biết, bị lừa dối bởi một Giáo hội vừa đồng lõa vừa hưởng lợi từ quyền lực của Nhà nước và của các địa chủ latifundia, những con người luôn bị cảnh sát giám sát, những con người, biết bao lần, là nạn nhân vô tội của những tùy tiện của một nền tư pháp giả dối. Ba thế hệ của một gia đình nông dân, gia đình Mau – Tempo, từ đầu thế kỷ đến Cách mạng Tháng Tư năm 1974 lật đổ chế độ độc tài, đi qua cuốn tiểu thuyết mà tôi đặt tên là Levantado do Chão (1980). Chính với những con người đàn bà và đàn ông ấy, những người từ mặt đất đứng lên, ban đầu là con người thực, sau là nhân vật hư cấu, mà tôi đã học được sự kiên nhẫn, học cách tin tưởng và phó thác cho thời gian, cho thời gian ấy, thứ vừa xây dựng chúng ta vừa hủy diệt chúng ta để lại xây dựng và lại hủy diệt. Tôi chỉ không chắc rằng mình đã đồng hóa một cách thỏa đáng điều mà sự khắc nghiệt của trải nghiệm đã biến thành đức hạnh nơi những người đàn bà và đàn ông ấy: một thái độ khắc kỷ tự nhiên trước đời sống. Tuy nhiên, xét rằng bài học đã nhận, hơn 20 năm trôi qua, vẫn còn nguyên vẹn trong ký ức tôi, rằng mỗi ngày tôi đều cảm thấy nó hiện diện trong tinh thần mình như một lời triệu tập dai dẳng, tôi chưa đánh mất, cho đến nay, hy vọng một ngày nào đó trở nên xứng đáng hơn một chút với sự vĩ đại của những tấm gương phẩm giá đã được đề xuất cho tôi trên sự mênh mông của những đồng bằng Alentejo. Thời gian sẽ trả lời.

Tôi còn có thể nhận được những bài học nào khác từ một người Bồ Đào Nha sống ở thế kỷ XVI, người đã sáng tác Rimas và những vinh quang, những vụ đắm tàu và những vỡ mộng của quê hương trong Os Lusíadas, người là một thiên tài thi ca tuyệt đối, vĩ đại nhất của văn học chúng tôi, dù điều đó có nặng nề đến đâu đối với Fernando Pessoa, người đã tự xưng là Siêu – Camões của nó? Không một bài học nào vừa với tầm của tôi, không một bài học nào tôi có thể học, ngoại trừ bài học đơn giản nhất mà con người Luís Vaz de Camões có thể trao cho tôi trong nhân tính thuần khiết của ông, chẳng hạn, sự khiêm nhường kiêu hãnh của một tác giả gõ cửa từng nhà để tìm người sẵn sàng xuất bản cuốn sách mình đã viết, vì thế mà chịu đựng sự khinh miệt của những kẻ ngu dốt về dòng máu và đẳng cấp, sự thờ ơ khinh thường của một ông vua và triều đình quyền thế của ông, sự chế nhạo mà từ muôn thuở thế gian vẫn dành cho sự viếng thăm của các thi sĩ, những kẻ thị kiến và những người điên. Ít nhất một lần trong đời, mọi tác giả đã hoặc sẽ phải là Luís de Camões, ngay cả khi họ không viết những câu redondilha của Sôbolos rios…

Giữa các quý tộc triều đình và các kiểm duyệt viên của Tòa Thánh, giữa những mối tình xưa và những vỡ mộng của tuổi già sớm, giữa nỗi đau của việc viết và niềm vui của việc đã viết, chính con người bệnh tật này, trở về nghèo khó từ Ấn Độ, nơi nhiều người chỉ đến để làm giàu, chính người lính mù một mắt và bị thương trong tâm hồn này, chính kẻ quyến rũ không vận may này sẽ không bao giờ còn khuấy động giác quan của các phu nhân trong cung điện, tôi đã đặt ông sống trên sân khấu của vở kịch mang tên Que farei com este livro? (1980), ở cuối vang lên một câu hỏi khác, câu hỏi thực sự quan trọng, câu hỏi mà chúng ta sẽ không bao giờ biết liệu có khi nào đạt được một câu trả lời đủ hay không: Các người sẽ làm gì với cuốn sách này? Sự khiêm nhường kiêu hãnh, đó chính là việc mang dưới cánh tay một kiệt tác và thấy mình bị thế gian bất công từ chối. Sự khiêm nhường kiêu hãnh cũng vậy, và bền bỉ, là mong muốn biết những cuốn sách mà hôm nay chúng ta đang viết sẽ dùng vào việc gì ngày mai, rồi ngay lập tức nghi ngờ rằng những lý do trấn an mà có thể chúng ta đang nhận được hoặc đang tự ban cho mình có thể tồn tại lâu dài (đến bao giờ?) hay không. Không ai lầm lạc tốt hơn kẻ chấp nhận để người khác lừa dối mình…

Giờ đây tiến lại gần một người đàn ông đã mất bàn tay trái trong chiến tranh và một người phụ nữ sinh ra với quyền năng bí ẩn nhìn thấy những gì ở phía sau làn da của con người. Ông tên là Baltasar Mateus và có biệt danh Sete – Sóis, bà được biết đến với tên Blimunda, và còn với biệt hiệu Sete – Luas được thêm sau này, bởi đã được viết rằng nơi nào có một mặt trời thì phải có một mặt trăng, và chỉ sự hiện diện đồng thời và hài hòa của cả hai mới làm cho trái đất có thể ở được, bằng tình yêu. Cũng tiến lại gần một linh mục Dòng Tên tên là Bartolomeu, người đã phát minh ra một cỗ máy có thể bay lên trời mà không cần nhiên liệu nào khác ngoài ý chí con người, thứ mà, theo như người ta nói, có thể làm được mọi điều, nhưng đã không thể, hoặc không biết, hoặc không muốn, cho đến hôm nay, trở thành mặt trời và mặt trăng của lòng nhân hậu giản dị hay của sự tôn trọng còn giản dị hơn. Đó là ba kẻ điên Bồ Đào Nha của thế kỷ XVIII, trong một thời và một đất nước nơi những mê tín và những giàn hỏa của Tòa Án Dị Giáo nở rộ, nơi sự phù hoa và chứng tự đại của một ông vua đã dựng lên một tu viện, một cung điện và một vương cung thánh đường sẽ làm kinh ngạc thế giới bên ngoài, trong trường hợp ít có khả năng là thế giới ấy có đủ mắt để nhìn thấy Bồ Đào Nha, như chúng ta biết Blimunda đã có để nhìn thấy những gì bị che giấu… Và cũng tiến lại gần một đám đông hàng ngàn hàng ngàn người đàn ông với đôi tay bẩn thỉu và chai sạn, với thân thể kiệt quệ vì đã dựng lên, trong suốt nhiều năm liền, từng viên đá một, những bức tường không khoan nhượng của tu viện, những sảnh đường mênh mông của cung điện, những cột trụ và trụ đỡ, những tháp chuông vươn cao, mái vòm của vương cung thánh đường treo lơ lửng trên hư không. Những âm thanh chúng ta đang nghe là của đàn harpsichord của Domenico Scarlatti, người không biết nên cười hay nên khóc… Đây là câu chuyện của Memorial do Convento (1982), một cuốn sách trong đó người học việc làm tác giả, nhờ những gì đã được dạy từ thời xa xưa của ông bà Jerónimo và Josefa, đã có thể viết được những lời như thế này, không thiếu một chút thơ ca: Ngoài những câu chuyện của đàn bà, chính những giấc mơ giữ cho thế giới ở trong quỹ đạo của nó. Nhưng cũng chính những giấc mơ làm cho nó một vương miện những mặt trăng, bởi thế bầu trời là ánh rực rỡ ở bên trong đầu con người, nếu không phải chính đầu con người là bầu trời duy nhất. Cầu mong là như vậy.

Về những bài học thi ca, chàng thiếu niên đã biết được đôi điều, học từ sách giáo khoa khi, trong một trường dạy nghề ở Lisboa, cậu chuẩn bị cho nghề mà cậu đã làm trong những năm đầu đời lao động: nghề thợ nguội cơ khí. Cậu cũng có những người thầy giỏi của nghệ thuật thi ca trong những giờ đêm dài ở các thư viện công cộng, đọc một cách ngẫu nhiên theo những cuộc gặp gỡ và mục lục, không định hướng, không ai chỉ dẫn, với cùng sự kinh ngạc sáng tạo của nhà hàng hải đang phát minh ra từng nơi chốn mà mình khám phá. Nhưng chính trong thư viện của trường công nghiệp mà O Ano da Morte de Ricardo Reis (1984) bắt đầu được viết… Ở đó, một ngày nọ, người học việc thợ nguội trẻ (khi ấy khoảng 17 tuổi) tìm thấy một tạp chí – Atena là nhan đề – trong đó có những bài thơ ký tên bằng cái tên ấy, và dĩ nhiên, là một kẻ hiểu biết rất kém về bản đồ văn học của đất nước mình, cậu nghĩ rằng ở Bồ Đào Nha có một nhà thơ tên là Ricardo Reis. Không lâu sau đó, cậu biết rằng nhà thơ thực sự là một người tên Fernando Nogueira Pessoa, người ký thơ bằng những tên nhà thơ không tồn tại sinh ra trong đầu ông, mà ông gọi là dị danh, một từ không có trong các từ điển thời ấy, nên người học việc chữ nghĩa đã rất vất vả để biết nó có nghĩa gì. Cậu học thuộc lòng nhiều bài thơ của Ricardo Reis (Para ser grande sê inteiro/Põe quanto és no mínimo que fazes), nhưng không thể cam chịu, dù còn rất trẻ và dốt nát, rằng một tinh thần siêu việt lại có thể nghĩ ra, không hối hận, câu thơ tàn nhẫn này: Khôn ngoan là kẻ bằng lòng với quang cảnh của thế giới. Rất, rất lâu sau đó, người học việc, nay tóc đã bạc và khôn ngoan hơn đôi chút với những sự khôn ngoan của chính mình, đã dám viết một cuốn tiểu thuyết để cho nhà thơ của những bài Ode thấy đôi điều về quang cảnh của thế giới trong năm 1936 mà ông đã đặt ông sống những ngày cuối cùng: sự chiếm đóng Rheinland của quân đội Quốc xã, cuộc chiến của Franco chống lại Cộng hòa Tây Ban Nha, việc Salazar thành lập các lực lượng dân quân phát xít Bồ Đào Nha. Như thể cậu đang nói với ông: Đây là quang cảnh của thế giới, hỡi nhà thơ của những u uẩn thanh thản và của chủ nghĩa hoài nghi tao nhã. Hãy hưởng thụ, hãy vui thích, hãy chiêm ngưỡng, vì ngồi yên chính là sự khôn ngoan của ông…

O Ano da Morte de Ricardo Reis kết thúc bằng những lời u sầu: Ở đây, nơi biển đã chấm dứt và đất đang chờ. Do đó, sẽ không còn những cuộc khám phá nào cho Bồ Đào Nha, chỉ còn một sự chờ đợi vô hạn những tương lai thậm chí không thể hình dung: chỉ định mệnh quen thuộc, nỗi hoài nhớ muôn thuở, và không nhiều hơn thế… Khi ấy, người học việc tưởng tượng rằng có lẽ vẫn còn một cách để lại hạ thủy những con thuyền, chẳng hạn, làm cho chính mặt đất chuyển động và đưa nó ra khơi. Là sản phẩm trực tiếp của nỗi uất ức tập thể Bồ Đào Nha trước những sự khinh rẻ lịch sử của châu Âu (chính xác hơn là sản phẩm của nỗi uất ức cá nhân của tôi…), cuốn tiểu thuyết mà khi ấy tôi viết – A Jangada de Pedra (1986) – tách toàn bộ Bán đảo Iberia khỏi lục địa châu Âu để biến nó thành một hòn đảo nổi khổng lồ, di chuyển không mái chèo, không buồm, không chân vịt về phía Nam của thế giới, một khối đá và đất, phủ đầy thành phố, làng mạc, sông ngòi, rừng cây, nhà máy, bụi rậm hoang dã, ruộng đồng canh tác, với con người và các con vật của nó, trên đường đến một không tưởng mới: cuộc gặp gỡ văn hóa của các dân tộc bán đảo với các dân tộc bên kia Đại Tây Dương, thách thức như vậy, đến mức chiến lược của tôi dám làm, sự thống trị ngột ngạt mà Hợp chủng quốc Hoa Kỳ đã và đang thực thi ở những vùng ấy… Một cách hiểu không tưởng hai lần sẽ xem hư cấu chính trị này như một ẩn dụ rộng lượng và nhân bản hơn nhiều: rằng châu Âu, toàn bộ châu Âu, nên dịch chuyển về phía Nam để, như một sự bù đắp cho những lạm dụng thuộc địa cũ và mới của mình, giúp cân bằng thế giới. Nghĩa là, châu Âu cuối cùng như đạo đức. Các nhân vật của A Jangada de Pedra – hai phụ nữ, ba người đàn ông và một con chó – không mệt mỏi du hành qua bán đảo trong khi nó rạch ngang đại dương. Thế giới đang thay đổi và họ biết rằng họ phải tìm trong chính mình những con người mới mà họ sẽ trở thành (không quên con chó, bởi nó không phải là một con chó như những con khác…). Thế là đủ cho họ.

Người học việc khi ấy nhớ rằng trong một thời gian của đời mình đã từng làm một số công việc soát bản in sách, và rằng nếu trong A Jangada de Pedra cậu đã, nói như vậy, soát lại tương lai, thì cũng không tệ nếu giờ đây cậu soát lại quá khứ, sáng tạo một cuốn tiểu thuyết sẽ mang tên História do Cerco de Lisboa (1989), trong đó một người soát bản, khi soát một cuốn sách cùng nhan đề nhưng thuộc về lịch sử, và mệt mỏi vì thấy cái gọi là Lịch sử ngày càng kém khả năng gây bất ngờ, quyết định đặt một chữ không vào chỗ của một chữ có, lật đổ thẩm quyền của những sự thật lịch sử. Raimundo Silva, đó là tên người soát bản, là một người đàn ông đơn giản, tầm thường, chỉ khác với số đông ở chỗ tin rằng mọi sự vật đều có mặt nhìn thấy và mặt không nhìn thấy, và rằng chúng ta sẽ không biết gì về chúng nếu chưa xoay chúng một vòng trọn vẹn. Chính về điều đó mà cuộc trò chuyện giữa ông và nhà sử học xoay quanh. Như sau: Tôi nhắc ông rằng những người soát bản đã thấy rất nhiều văn chương và đời sống, Cuốn sách của tôi, tôi nhắc ông, là về lịch sử, Không nhằm mục đích chỉ ra những mâu thuẫn khác, thưa ông tiến sĩ, theo ý tôi, tất cả những gì không phải là đời sống đều là văn chương, Cả lịch sử cũng vậy. Lịch sử trước hết, không có ý xúc phạm, Và hội họa, và âm nhạc, Âm nhạc đã chống cự từ khi ra đời, lúc đi lúc về, muốn thoát khỏi lời nói, tôi đoán là vì ghen tị, nhưng luôn quay lại với sự tuân phục, Còn hội họa, Thì hội họa không gì khác hơn là văn chương làm bằng cọ vẽ, Mong ông không quên rằng nhân loại đã bắt đầu vẽ rất lâu trước khi biết viết, Ông biết câu ngạn ngữ chứ, không có chó thì săn bằng mèo, hay nói cách khác, ai không thể viết thì vẽ, hoặc vẽ hình, đó là điều trẻ con làm, Ý ông nói, nói cách khác, là văn chương đã tồn tại trước khi được sinh ra, Vâng thưa ông, như con người, nói cách khác, trước khi là con người thì đã là rồi, Tôi nghĩ là ông nhầm nghề, đáng lẽ ông nên là nhà sử học, Tôi thiếu sự chuẩn bị, thưa ông tiến sĩ, một người đơn giản có thể làm gì nếu không có sự chuẩn bị, đã là may mắn lớn khi sinh ra với di truyền được sắp xếp, nhưng, nói như vậy, ở trạng thái thô, rồi không được đánh bóng nào khác ngoài những chữ cái đầu tiên đã trở thành duy nhất, Ông có thể tự giới thiệu là tự học, sản phẩm của nỗ lực riêng và đáng kính của mình, không có gì đáng xấu hổ, ngày xưa xã hội tự hào về những người tự học của mình, điều đó chấm dứt rồi, phát triển đến và chấm dứt, những người tự học bị nhìn bằng con mắt xấu, chỉ những ai viết thơ và truyện để giải trí mới được phép là tự học, nhưng tôi chưa bao giờ có năng khiếu cho sáng tạo văn học, Vậy thì hãy làm triết gia, Ông tiến sĩ là một nhà hài hước, ông trau dồi mỉa mai, tôi tự hỏi làm sao ông lại hiến mình cho lịch sử, khi nó là một khoa học nghiêm trọng và sâu sắc đến thế, Tôi chỉ mỉa mai trong đời sống thực, Tôi rất muốn tin rằng lịch sử không phải là đời sống thực, văn chương thì đúng, và không gì khác, Nhưng lịch sử đã là đời sống thực trong thời mà người ta chưa thể gọi nó là lịch sử, Vậy ông tiến sĩ cho rằng lịch sử và đời sống thực, Tôi cho rằng, vâng, Rằng lịch sử đã là đời sống thực, ý tôi là, Tôi không có chút nghi ngờ nào, Chúng ta sẽ ra sao nếu không có chữ deleatur xóa bỏ tất cả, người soát bản thở dài. Không cần phải nói thêm rằng người học việc đã học từ Raimundo Silva bài học của sự hoài nghi. Không phải là quá sớm.

Có lẽ chính sự học tập của hoài nghi này đã dẫn cậu, hai năm sau, đến việc viết O Evangelho segundo Jesus Cristo (1991). Đúng là, và cậu đã nói điều đó, rằng những từ của nhan đề đến với cậu do một ảo giác quang học, nhưng cũng hợp lý khi tự hỏi liệu có phải chính tấm gương điềm tĩnh của người soát bản đã, trong khoảng thời gian ấy, chuẩn bị mảnh đất từ đó cuốn tiểu thuyết mới sẽ nảy mầm hay không. Lần này không phải là nhìn phía sau những trang của Tân Ước để tìm những đối nghịch, mà là chiếu lên bề mặt của chúng một ánh sáng xiên, như người ta làm với một bức tranh, để làm nổi lên những gờ cạnh, những dấu vết của thời gian, sự tối tăm của những chỗ lõm. Chính như vậy mà người học việc, giờ được bao quanh bởi những nhân vật Phúc Âm, đã đọc, như thể lần đầu tiên, mô tả về vụ tàn sát các Trẻ Vô Tội, và, đã đọc, thì không hiểu. Không hiểu rằng đã có thể có những vị tử đạo trong một tôn giáo còn phải đợi 30 năm nữa để người sáng lập của nó thốt ra lời đầu tiên, không hiểu rằng người duy nhất có thể cứu sống những đứa trẻ ở Bethlehem lại không làm điều đó, không hiểu sự vắng mặt, nơi Joseph, của một cảm giác tối thiểu về trách nhiệm, về hối hận, về tội lỗi, hay thậm chí về tò mò, sau khi trở về từ Ai Cập cùng gia đình. Cũng không thể viện dẫn, để biện hộ cho vụ việc, rằng cần phải để những đứa trẻ ở Bethlehem chết để cứu sống Jesus: lẽ thường đơn giản, thứ lẽ thường nên cai quản mọi sự, cả nhân loại lẫn thần thánh, ở đó để nhắc chúng ta rằng Thiên Chúa sẽ không gửi Con của Ngài xuống trần gian, lại còn giao cho Ngài nhiệm vụ chuộc tội cho nhân loại, để Ngài chết khi hai tuổi bị một lính của Herodes chém đầu…

Trong Phúc Âm ấy, được người học việc viết với sự tôn trọng xứng đáng với những bi kịch lớn, Joseph sẽ ý thức về tội lỗi của mình, chấp nhận sự hối hận như hình phạt cho lỗi lầm đã phạm và để mình bị dẫn đến cái chết gần như không kháng cự, như thể điều đó vẫn còn thiếu để thanh toán xong những món nợ của ông với thế gian. Phúc Âm của người học việc, do đó, không phải là một truyền thuyết xây dựng nữa về những người có phúc và các vị thần, mà là câu chuyện của một số con người chịu sự chi phối của một quyền lực mà họ đấu tranh chống lại nhưng không thể chiến thắng. Jesus, người sẽ thừa hưởng đôi dép mà cha mình đã dùng để bước trên bụi đường của trái đất, cũng sẽ thừa hưởng từ ông cảm thức bi kịch về trách nhiệm và tội lỗi sẽ không bao giờ rời bỏ Ngài, ngay cả khi Ngài cất tiếng từ trên cao của thập giá: Hỡi loài người, hãy tha thứ cho Ngài vì Ngài không biết mình đã làm gì, hẳn là nói về Thiên Chúa đã đưa Ngài đến đó, nhưng ai biết được liệu trong cơn hấp hối sau cùng ấy, Ngài còn nhớ đến người cha đích thực của mình, người đã sinh ra Ngài bằng thịt và máu, theo cách của con người hay không. Như có thể thấy, người học việc đã đi một hành trình dài khi trong Phúc Âm mang tính dị giáo của mình, cậu viết những lời cuối của cuộc đối thoại trong đền thờ giữa Jesus và người kinh sư: Tội lỗi là con sói ăn thịt đứa con sau khi đã nuốt chửng người cha, người kinh sư nói, Con sói mà ông nói đến đã ăn thịt cha tôi rồi, Jesus nói, Vậy thì chỉ còn thiếu nó nuốt chửng cả ông, Còn ông, trong đời mình, đã bị ăn, hay bị nuốt chửng, Không chỉ bị ăn và bị nuốt chửng, mà còn bị nôn ra, người kinh sư trả lời.

Nếu Hoàng đế Karl Đại đế đã không lập một tu viện ở miền Bắc nước Đức, nếu tu viện ấy không sinh ra thành phố Münster, nếu Münster không muốn kỷ niệm một nghìn hai trăm năm thành lập của mình bằng một vở opera về cuộc chiến khủng khiếp đã đối mặt ở thế kỷ XVI giữa những người Tin Lành Anabaptist và những người Công giáo, người học việc đã không viết vở kịch mà cậu đặt tên là In Nomine Dei (1993). Một lần nữa, không có sự trợ giúp nào khác ngoài ánh sáng nhỏ bé của lý trí mình, người học việc phải đi vào mê cung mờ tối của những niềm tin tôn giáo, những thứ dễ dàng đến thế khiến con người giết và để mình bị giết. Và điều cậu thấy lại là chiếc mặt nạ ghê tởm của sự bất dung thứ, một sự bất dung thứ mà ở Münster đã đạt đến đỉnh điểm cuồng loạn, một sự bất dung thứ xúc phạm chính mục đích mà cả hai phía tuyên bố bảo vệ. Bởi đó không phải là một cuộc chiến nhân danh hai vị thần thù địch, mà là một cuộc chiến nhân danh cùng một vị thần. Mù lòa bởi chính niềm tin của mình, những người Anabaptist và Công giáo ở Münster đã không thể hiểu được điều hiển nhiên nhất trong mọi điều hiển nhiên: vào ngày Phán Xét Cuối Cùng, khi cả hai bên trình diện để nhận phần thưởng hay hình phạt xứng đáng với những hành động của mình trên trần gian, Thiên Chúa, nếu trong các quyết định của Ngài tuân theo một điều gì đó giống với logic con người, sẽ phải đón nhận vào thiên đường cả hai phía, vì lý do đơn giản rằng cả hai đều tin vào Ngài. Cuộc thảm sát khủng khiếp ở Münster đã dạy cho người học việc rằng, trái với những gì đã hứa, các tôn giáo chưa bao giờ phục vụ để đưa con người lại gần nhau, và rằng cuộc chiến phi lý nhất trong mọi cuộc chiến là chiến tranh tôn giáo, xét rằng Thiên Chúa không thể, dù có muốn, tuyên chiến với chính mình…

Mù lòa. Người học việc nghĩ: Chúng ta mù, và ngồi xuống viết Ensaio sobre a Cegueira (1995) để nhắc cho những ai đọc rằng chúng ta sử dụng lý trí một cách lệch lạc khi hạ nhục sự sống, rằng phẩm giá của con người mỗi ngày đều bị xúc phạm bởi những kẻ quyền lực của thế giới chúng ta, rằng lời nói dối phổ quát đã chiếm chỗ của những chân lý đa dạng, rằng con người đã thôi tôn trọng chính mình khi đánh mất sự tôn trọng đáng có đối với đồng loại. Sau đó, người học việc, như thể cố gắng trừ tà những quái vật được sinh ra bởi sự mù lòa của lý trí, bắt tay viết câu chuyện đơn giản nhất trong mọi câu chuyện: một người đi tìm một người khác chỉ vì đã hiểu rằng đời sống không có gì quan trọng hơn việc xin một con người. Cuốn sách mang tên Todos os Nomes (1998). Không được viết ra, tất cả tên của chúng ta đều ở đó. Tên của người sống và tên của người chết.

Tôi kết thúc. Giọng nói đã đọc những trang này muốn là tiếng vọng của những giọng nói kết hợp của các nhân vật của tôi. Nói cho đúng, tôi không có giọng nói nào khác ngoài giọng nói mà họ có. Xin tha thứ cho tôi nếu với các người điều này có vẻ là ít, trong khi đối với tôi đó là tất cả.

Diễn từ Nobel Văn học 1998 – Làm thế nào các nhân vật trở thành bậc thầy và tác giả trở thành người học việc của họ, José Saramago 647 – thu vien, van hoc, nobel, nobel van hoc, nobel van hoc 1998, jose saramago, dien tu nobel van hoc, dien tu nobel, dien tu nobel van hoc 1998.
Diễn từ Nobel Văn học 1998 – Làm thế nào các nhân vật trở thành bậc thầy và tác giả trở thành người học việc của họ, José Saramago.
0%

Chuyên mục jose-saramago

Chuyên mục thu-vien

Chuyên mục dien-tu-nobel-van-hoc

Theo dõi hành trình

Hãy để lại thông tin, khi có gì mới thì Nhavanvn sẽ gửi thư đến bạn để cập nhật. Cam kết không gửi email rác.

Họ và tên

Email liên lạc

Đôi dòng chia sẻ