Diễn từ Nobel Văn học 2003 – Hắn và người đàn ông của hắn, J. M. Coetzee
Diễn từ Nobel văn học 2003 của J. M. Coetzee không chỉ là bài phát biểu tri ân của tác giả khi nhận giải thưởng danh giá nhất trong làng văn chương thế giới.
| 38 phút đọc | lượt xem.
Diễn từ Nobel văn học không chỉ là bài phát biểu tri ân của những tác giả vĩ đại khi nhận giải thưởng danh giá nhất trong làng văn chương thế giới. Đó còn là những tuyên ngôn về nghệ thuật, về tầm nhìn triết học, về vai trò của văn chương trong đời sống tinh thần nhân loại. Qua từng diễn từ Nobel văn học, chúng ta không chỉ hiểu được con người của nhà văn mà còn nhận ra được mạch nguồn sáng tạo, nhận thức thời đại và trách nhiệm của người cầm bút với hiện thực xã hội.
Dưới đây là bản dịch Diễn từ Nobel Văn học 2003(https://nhavan.vn/van/dien-tu-van-hoc-2003), chuyển ngữ trực tiếp từ nguyên văn lưu trữ tại Thư viện Nobel Prize. Ban biên tập ưu tiên sử dụng bản gốc của tác giả làm cơ sở dịch thuật, trong trường hợp văn bản được viết bằng ngôn ngữ phi Latin (như tiếng Nhật, tiếng Hàn…) thì sử dụng bản Diễn từ Nobel Văn học tiếng Anh chính thức do Nobel Prize công bố.
Nhà văn Nam Phi J. M. Coetzee và nghệ thuật khám phá ranh giới đạo đức
John Maxwell Coetzee (1940) là nhà tiểu thuyết, nhà tiểu luận, nhà phê bình văn học và dịch giả người Nam Phi và Úc, một trong những nhà văn có ảnh hưởng nhất của văn học đương đại. Ông sinh ngày 9 tháng 2 năm 1940 tại Cape Town, Nam Phi, trong một gia đình người Afrikaner gốc Hà Lan. Coetzee lớn lên trong xã hội Nam Phi dưới chế độ phân biệt chủng tộc Apartheid, nhưng không giống như Nadine Gordimer, ông ít tham gia trực tiếp vào hoạt động chính trị và thay vào đó chọn cách khám phá các vấn đề đạo đức và chính trị thông qua nghệ thuật tiểu thuyết. Năm 2003, J. M. Coetzee được trao giải Nobel văn học vì người vô số hóa trang miêu tả sự tham gia đáng ngạc nhiên của người ngoài cuộc, công nhận khả năng độc đáo của ông trong việc khám phá mối quan hệ giữa cái tôi và người khác, giữa quyền lực và yếu đuối, giữa văn minh và man rợ.
Từ Cape Town đến văn đàn thế giới
John Maxwell Coetzee sinh ngày 9 tháng 2 năm 1940 tại Cape Town, Nam Phi, trong một gia đình người Afrikaner. Cha của ông là luật sư nhưng sau này làm nghề chăn cừu, trong khi mẹ ông là giáo viên. Coetzee lớn lên trong bối cảnh hệ thống phân biệt chủng tộc apartheid được thiết lập chính thức vào năm 1948, điều này có ảnh hưởng sâu sắc đến ý thức của ông về bất công và quyền lực. Ông học toán và tiếng Anh tại Đại học Cape Town, tốt nghiệp năm 1960 với hai bằng cử nhân. Sau đó, ông làm việc như lập trình viên máy tính ở Anh từ 1962 đến 1965, một kinh nghiệm xuất hiện trong tiểu thuyết tự truyện hóa Youth (Tuổi trẻ, 2002). Coetzee sau đó theo học tiến sĩ văn học Anh tại Đại học Texas tại Austin, bảo vệ luận án về tiểu thuyết gia Samuel Beckett năm 1969.
Coetzee trở về Nam Phi năm 1971 và bắt đầu giảng dạy tại Đại học Cape Town, nơi ông làm việc đến năm 2002. Giai đoạn này là thời kỳ sáng tác phong phú nhất của ông. Tiểu thuyết đầu tiên Dusklands (Vùng đất chạng vạng, 1974) là tác phẩm thực nghiệm gồm hai phần: một về chiến tranh Việt Nam và chiến tranh tâm lý, phần còn lại về một cuộc thám hiểm thuộc địa ở Nam Phi thế kỷ 18. Tác phẩm này đã thiết lập chủ đề xuyên suốt trong sự nghiệp của Coetzee: mối quan hệ giữa quyền lực, bạo lực và tha hóa. Thập niên 1980 chứng kiến những tác phẩm quan trọng nhất của ông, bao gồm Waiting for the Barbarians (Chờ đợi bọn man rợ, 1980), Life & Times of Michael K (Cuộc đời và thời đại của Michael K, 1983 – đoạt giải Booker lần đầu), và Foe (Kẻ thù, 1986). Năm 1999, ông lại đoạt giải Booker lần thứ hai với Disgrace (Sự nhục nhã, 1999), trở thành một trong số ít tác giả đoạt giải danh giá này hai lần.
Năm 2002, Coetzee di cư đến Úc và trở thành công dân Úc năm 2006, một quyết định gây nhiều suy đoán về mối quan hệ phức tạp của ông với Nam Phi. Ông tiếp tục sáng tác tại Úc với những tác phẩm như Slow Man (Người đàn ông chậm chạp, 2005), Diary of a Bad Year (Nhật ký của một năm tồi tệ, 2007), và bộ ba tiểu thuyết The Childhood of Jesus (Tuổi thơ của Jesus, 2013), The Schooldays of Jesus (Những ngày đến trường của Jesus, 2016), và The Death of Jesus (Cái chết của Jesus, 2019). Coetzee nổi tiếng là người vô cùng kín tiếng, hiếm khi trao phỏng vấn và tránh xuất hiện công khai. Ngay cả khi nhận giải Nobel năm 2003, ông đã đọc một bài phát biểu ngắn và từ chối tham gia các sự kiện xã giao thông thường. Sự kín tiếng này đã trở thành một phần của hình ảnh công chúng của ông, tạo ra khoảng cách giữa tác giả và tác phẩm mà ông có vẻ ưa thích.
Ngụ ngôn đạo đức và ranh giới nhân tính
Viện Hàn lâm Thụy Điển trao giải Nobel văn học 2003 cho J. M. Coetzee với lời tuyên dương người dưới vô số bản ngã miêu tả một cách đáng ngạc nhiên về sự tham gia của kẻ ngoại cuộc. Cụm từ vô số bản ngã ám chỉ đến khả năng của Coetzee trong việc viết từ nhiều góc nhìn khác nhau – từ quan chức thuộc địa, nô lệ, phụ nữ, người tàn tật, súc vật – mỗi nhân vật đều là kẻ ngoại cuộc theo cách riêng của họ. Coetzee không bao giờ viết từ vị trí quyền lực trung tâm mà luôn khám phá kinh nghiệm của những người bị đẩy ra lề, bị im lặng, bị tước quyền. Đồng thời, ông cũng khám phá sự tham gia – cách những người này vẫn tồn tại, vẫn duy trì nhân tính và ý nghĩa trong hoàn cảnh áp bức. Phong cách của Coetzee đặc trưng bởi ngôn ngữ tiết chế, gần như khắc khổ, với những câu ngắn gọn, chính xác, tạo nên hiệu ứng xa cách nhưng đầy sức mạnh cảm xúc.
Tác phẩm tiêu biểu nhất của Coetzee là Waiting for the Barbarians, ngụ ngôn về chủ nghĩa đế quốc và bạo lực. Câu chuyện kể về một Quan chấp chính già nua ở biên giới của một đế quốc không tên, người phục vụ một cách lương thiện cho đến khi Đại tá Joll từ thủ đô đến để tiến hành chiến dịch chống lại bọn man rợ – những dân tộc bản địa sống ngoài biên giới. Chứng kiến sự tra tấn và hủy hoại do Joll gây ra, Quan chấp chính dần nhận thức được sự đồng lõa của mình trong hệ thống đế quốc. Khi ông cố gắng chuộc lỗi bằng cách đưa một phụ nữ bản địa bị tra tấn trở về với người của cô, ông bị coi là phản bội và bị tra tấn. Tiểu thuyết không xác định thời gian hay địa điểm cụ thể, biến nó thành ngụ ngôn phổ quát về bất kỳ hệ thống thuộc địa nào. Coetzee khéo léo đặt câu hỏi: ai thực sự là bọn man rợ – những người bên ngoài hay những người tự xưng văn minh nhưng sử dụng bạo lực tàn khốc để duy trì quyền lực?
Tác phẩm Disgrace là tiểu thuyết gây tranh cãi nhất của Coetzee, lấy bối cảnh Nam Phi hậu apartheid. David Lurie, một giáo sư văn học trung niên ở Cape Town, bị sa thải sau khi có quan hệ tình dục với một sinh viên. Ông đến sống với con gái Lucy tại một trang trại hẻo lánh, nơi họ bị tấn công bởi ba người đàn ông da đen. Lucy bị cưỡng hiếp và David bị thương, nhưng Lucy từ chối báo cáo cảnh sát hay rời trang trại. Cô chấp nhận mang thai từ vụ cưỡng hiếp và đồng ý trở thành người thuê đất cho Petrus, người đàn ông da đen từng là công nhân của cô. Tiểu thuyết khám phá những chủ đề cực kỳ phức tạp về chủng tộc, quyền lực, tội lỗi và chuộc tội trong bối cảnh Nam Phi hậu apartheid. Coetzee không đưa ra câu trả lời đạo đức rõ ràng, khiến nhiều độc giả cảm thấy bất an. Một số nhà phê bình cho rằng tiểu thuyết củng cố định kiến chủng tộc, trong khi người khác cho rằng nó là khám phá trung thực về di sản phức tạp của apartheid và câu hỏi về công lý trong thời kỳ chuyển tiếp.
Coetzee cũng nổi tiếng với các tác phẩm siêu tiểu thuyết – tiểu thuyết về việc viết tiểu thuyết. Foe là phiên bản viết lại câu chuyện Robinson Crusoe từ góc nhìn của Susan Barton, một phụ nữ cũng sống trên đảo và sau đó cố gắng thuyết phục nhà văn Foe (phiên bản hư cấu của Daniel Defoe) kể câu chuyện của cô. Tác phẩm này khám phá câu hỏi về quyền được kể chuyện, về ai có tiếng nói và ai bị im lặng trong văn học. Nhân vật Friday, người hầu câm trong tiểu thuyết, trở thành biểu tượng cho tất cả những người bị tước tiếng nói bởi lịch sử thuộc địa. Elizabeth Costello (2003) là tiểu thuyết về một nhà văn nữ già phát biểu tại các hội nghị, khám phá các vấn đề từ quyền động vật đến bản chất của cái ác và văn học. Tác phẩm này phản ánh sự quan tâm lâu dài của Coetzee đối với đạo đức động vật – ông là người ăn chay nhiều thập kỷ và coi việc đối xử với động vật như một thử nghiệm đạo đức cơ bản của nhân loại.
Sức ảnh hưởng của J. M. Coetzee trên văn đàn thế giới và di sản văn học
J. M. Coetzee đã tác động sâu sắc đến văn học đương đại không chỉ thông qua phong cách viết mà còn qua cách ông đặt câu hỏi đạo đức. Không giống nhiều nhà văn chính trị có xu hướng đưa ra lập trường rõ ràng, Coetzee luôn tạo ra những tình huống đạo đức mơ hồ, buộc người đọc phải tự vật lộn với các câu hỏi khó mà không có câu trả lời dễ dàng. Phương pháp này ảnh hưởng đến thế hệ các nhà văn sau như Teju Cole, Rachel Cusk, và Ben Lerner, những người cũng quan tâm đến văn học như không gian khám phá đạo đức thay vì tuyên truyền. Coetzee đã chứng minh rằng văn học có thể đối đầu với các vấn đề chính trị và xã hội cấp bách mà không cần trở thành công cụ cho bất kỳ ý thức hệ nào, và rằng sự mơ hồ đạo đức không phải là trốn tránh mà là sự trung thực với độ phức tạp của thực tại.
Đóng góp của Coetzee đối với nghiên cứu hậu thực dân cũng vô cùng quan trọng. Các tác phẩm của ông đã thách thức các giả định về cách viết về chủ nghĩa thực dân và hậu quả của nó. Thay vì tập trung vào cuộc đấu tranh giải phóng hay lãng mạn hóa kháng chiến, Coetzee khám phá tâm lý của cả người áp bức và người bị áp bức, cho thấy cách cả hai đều bị bẫy trong hệ thống quyền lực không ai tạo ra một mình. Quan chấp chính trong Waiting for the Barbarians không phải là kẻ ác đơn thuần mà là người đàn ông lương thiện bị cuốn vào cỗ máy đế quốc; David Lurie trong Disgrace không phải là nạn nhân đơn thuần mà là người phải đối mặt với hậu quả của đặc quyền lịch sử của mình. Cách tiếp cận này đã mở rộng khả năng của văn học hậu thực dân vượt ra ngoài nhị phân đơn giản giữa người áp bức và người bị áp bức.
Coetzee cũng là một trong những nhà văn đầu tiên đưa câu hỏi về quyền động vật vào trung tâm của văn học nghiêm túc. Trong The Lives of Animals (Cuộc sống của động vật, 1999, sau này được đưa vào Elizabeth Costello), ông khám phá tương đồng giữa cách con người đối xử với động vật và Holocaust, lập luận rằng khả năng phủ nhận đau khổ của những người khác là nguồn gốc của cả hai. Tư tưởng này đã ảnh hưởng đến phong trào quyền động vật và các nhà triết học như Peter Singer. Coetzee cho rằng văn học có trách nhiệm mở rộng vòng tròn đồng cảm của chúng ta, buộc chúng ta nhìn thấy nhân tính – và cả tính nhạy cảm – trong những người và sinh vật mà xã hội thường phủ nhận. Di sản của ông tiếp tục sống động trong các cuộc tranh luận đương đại về đạo đức, quyền lực và khả năng của văn học trong việc thay đổi nhận thức đạo đức của chúng ta.
Hắn và người đàn ông của hắn, J. M. Coetzee
Nhưng để trở lại với người bạn đồng hành mới của tôi. Tôi hết sức hài lòng về anh ta, và tự coi việc của mình là dạy cho anh ta mọi điều thích hợp để khiến anh ta trở nên hữu dụng, khéo léo và có ích; nhưng trên hết là dạy cho anh ta biết nói, và hiểu tôi khi tôi nói; và anh ta là học trò mẫn tiệp nhất từng có.
(The Life And Strange Surprizing Adventures Of Robinson Crusoe, Daniel Defoe, 1719).
Boston, trên bờ biển hạt Lincolnshire, là một thị trấn khang trang, người của hắn viết. Tháp chuông nhà thờ cao nhất toàn nước Anh tọa lạc tại đó; các hoa tiêu ngoài khơi dùng nó để định hướng. Chung quanh Boston là vùng đầm lầy. Chim bittern sinh sôi nhiều vô kể, những loài chim điềm gở, phát ra tiếng kêu nặng nề, rên rỉ, đủ lớn để nghe thấy từ khoảng cách hai dặm, như tiếng súng nổ.
Các vùng đầm lầy cũng là nơi cư ngụ của nhiều loài chim khác, người của hắn viết, vịt trời và vịt cổ xanh, vịt mòng két và vịt trời nhỏ; để bắt chúng, những người đàn ông của vùng đầm lầy, những người thợ đầm lầy, nuôi vịt đã được thuần hóa, mà họ gọi là vịt nhử hoặc duckoy.
Đầm lầy là những dải đất ngập nước. Khắp châu Âu, khắp thế giới đều có những dải đất ngập nước, nhưng chúng không được gọi là đầm lầy; fen là một từ tiếng Anh, nó sẽ không di cư.
Những con vịt nhử của Lincolnshire này, người của hắn viết, được gây giống trong các ao nhử và được giữ cho thuần bằng cách cho ăn bằng tay. Khi đến mùa, chúng được đưa ra nước ngoài, sang Hà Lan và Đức. Ở Hà Lan và Đức, chúng gặp những con khác cùng loài, và khi thấy những con vịt Hà Lan và Đức kia sống khốn khổ đến mức nào, thấy sông ngòi của họ đóng băng vào mùa đông và đất đai bị tuyết phủ kín, chúng không quên cho chúng biết, bằng một hình thức ngôn ngữ khiến chúng hiểu được, rằng ở nước Anh, nơi chúng xuất thân, thì tình hình hoàn toàn khác hẳn: vịt Anh có bờ biển đầy thức ăn bổ dưỡng, có thủy triều lên xuống tự do trong các lạch nước; chúng có hồ, suối, ao mở và ao kín; lại có những cánh đồng đầy ngũ cốc còn sót lại sau mùa gặt; và không có băng giá hay tuyết, hoặc chỉ rất nhẹ.
Bằng những lời trình bày ấy, người của hắn viết, tất cả đều được thực hiện bằng ngôn ngữ của loài vịt, những con vịt nhử hay duckoy này tập hợp được vô số chim trời và, có thể nói, bắt cóc chúng. Chúng dẫn chúng vượt biển trở lại từ Hà Lan và Đức, đưa chúng về định cư trong các ao nhử trên các vùng đầm lầy Lincolnshire, không ngừng cãi cọ và líu ríu bằng chính ngôn ngữ của mình, nói với chúng rằng đây chính là những ao mà chúng đã kể, nơi chúng sẽ sống an toàn và yên ổn.
Trong khi chúng bận rộn như thế, những người thợ nhử, những ông chủ của đàn vịt nhử, len lỏi vào các chỗ ẩn hay lùm che mà họ đã dựng bằng sậy trên đầm lầy, và hoàn toàn không bị trông thấy, họ ném từng nắm ngô xuống mặt nước; và những con vịt nhử hay duckoy đi theo họ, kéo theo phía sau những vị khách ngoại quốc của mình. Và cứ thế, trong hai hoặc ba ngày, họ dẫn các vị khách đi dọc theo những lối nước ngày càng hẹp, suốt thời gian đó không ngừng gọi rằng hãy xem chúng ta sống tốt đẹp thế nào ở nước Anh, đến một nơi mà ở đó lưới đã được giăng sẵn.
Khi ấy, những người thợ nhử thả con chó nhử của họ, con chó đã được huấn luyện hoàn hảo để bơi theo chim trời, vừa bơi vừa sủa. Bị kinh hãi đến tột độ bởi sinh vật khủng khiếp này, đàn vịt tung cánh bay lên, nhưng lại bị ép rơi xuống nước bởi những tấm lưới vòm phía trên, và thế là chúng buộc phải bơi hoặc chết, dưới lưới. Nhưng chiếc lưới ngày càng thu hẹp lại, như một cái túi, và ở cuối là những người thợ nhử, họ bắt từng con một trong số những kẻ bị bắt. Những con vịt nhử được vuốt ve và được chiều chuộng, còn các vị khách của chúng thì bị đánh chết ngay tại chỗ, bị vặt lông và bán đi, hàng trăm, hàng nghìn con.
Toàn bộ những tin tức về Lincolnshire ấy, người của hắn viết bằng nét chữ gọn gàng, nhanh nhẹn, với những chiếc bút lông mà mỗi ngày anh ta đều chuốt sắc bằng con dao nhỏ của mình trước khi bước vào một cuộc giao tranh mới với trang giấy.
Tại Halifax, người của hắn viết, đã từng tồn tại, cho đến khi bị dỡ bỏ dưới triều vua James Đệ Nhất, một cỗ máy hành hình, vận hành như sau. Người bị kết án bị đặt nằm với đầu trên bệ chữ thập hay cái chén của giàn hành hình; sau đó đao phủ gõ bật một cái chốt giữ lưỡi dao nặng. Lưỡi dao trượt xuống theo một khung cao bằng cửa nhà thờ và chặt đầu người ấy gọn ghẽ như dao của người đồ tể.
Tuy nhiên, tại Halifax có một tập tục rằng nếu trong khoảng thời gian giữa lúc cái chốt bị gõ bật và lưỡi dao rơi xuống, người bị kết án có thể bật dậy, chạy xuống đồi và bơi qua sông mà không bị đao phủ bắt lại, thì người ấy sẽ được thả tự do. Nhưng trong suốt những năm cỗ máy ấy tồn tại tại Halifax, điều đó chưa bao giờ xảy ra.
Hắn, không còn là người của hắn nữa mà là hắn, ngồi trong căn phòng bên bờ nước tại Bristol và đọc những điều này. Hắn đã có tuổi, gần như có thể nói rằng giờ đây hắn đã là một ông già. Làn da trên khuôn mặt hắn, trước kia từng gần như bị làm cho đen sạm bởi mặt trời nhiệt đới trước khi hắn làm ra một chiếc dù che bằng lá cọ hay lá thốt nốt để tự che nắng, nay đã nhạt màu hơn, nhưng vẫn dai như giấy da; trên mũi hắn có một vết loét do nắng mà không chịu lành.
Chiếc dù che ấy hắn vẫn giữ trong phòng, dựng ở một góc, nhưng con vẹt đã trở về cùng hắn thì đã chết. Tội nghiệp Robin. Con vẹt từng kêu lên từ chỗ đậu trên vai hắn, Tội nghiệp Robin Crusoe. Ai sẽ cứu tội nghiệp Robin. Vợ hắn không chịu nổi tiếng than vãn của con vẹt, Tội nghiệp Robin ngày này qua ngày khác. Ta sẽ vặn cổ nó, bà ta nói, nhưng bà ta không có đủ can đảm để làm thế.
Khi trở về nước Anh từ hòn đảo của mình với con vẹt và chiếc dù che và chiếc rương đầy châu báu, hắn đã sống yên ổn một thời gian với người vợ già trên điền trang mà hắn mua ở Huntingdon, bởi hắn đã trở thành một người giàu có, và còn giàu hơn nữa sau khi cuốn sách kể về những cuộc phiêu lưu của hắn được in ra. Nhưng những năm tháng trên đảo, rồi những năm tháng du hành cùng người hầu Friday, tội nghiệp Friday, hắn tự than với mình, squawk – squawk, bởi con vẹt chưa bao giờ nói tên Friday, chỉ nói tên hắn, đã khiến cuộc sống của một địa chủ trở nên tẻ nhạt đối với hắn. Và nếu nói cho đúng sự thật, đời sống hôn nhân cũng là một nỗi thất vọng đau đớn. Hắn thấy mình ngày càng rút lui nhiều hơn vào chuồng ngựa, đến với những con ngựa của hắn, những con vật may mắn thay không lải nhải, mà chỉ hí khẽ khi hắn đến, để tỏ rằng chúng biết hắn là ai, rồi sau đó giữ im lặng.
Hắn cảm thấy, khi trở về từ hòn đảo của mình, nơi mà cho đến khi Friday đến hắn đã sống một đời sống lặng câm, rằng trên đời này có quá nhiều lời nói. Trên giường bên cạnh vợ, hắn cảm thấy như thể một cơn mưa sỏi đang đổ lên đầu mình, trong một tiếng sột soạt và lách cách bất tận, trong khi điều hắn mong muốn duy nhất chỉ là được ngủ.
Vì vậy khi người vợ già của hắn qua đời, hắn thương tiếc nhưng không buồn. Hắn chôn cất bà, và sau một thời gian thích đáng, thuê căn phòng này tại quán The Jolly Tar bên bờ cảng Bristol, giao việc điều hành điền trang ở Huntingdon cho con trai, chỉ mang theo chiếc dù che từ hòn đảo đã làm hắn nổi tiếng và con vẹt đã chết được gắn cố định trên chỗ đậu của nó cùng một vài vật dụng cần thiết, và đã sống ở đây một mình kể từ đó, ban ngày dạo bước quanh các cầu tàu và bến cảng, nhìn ra phía tây trên mặt biển, bởi thị lực của hắn vẫn còn tinh tường, hút tẩu thuốc. Còn bữa ăn, hắn cho mang lên phòng; bởi hắn không tìm thấy niềm vui nào trong giao tiếp xã hội, đã quen với sự cô độc trên đảo.
Hắn không đọc sách, đã mất đi hứng thú với việc đó; nhưng việc viết lại những cuộc phiêu lưu của mình đã đưa hắn vào thói quen viết lách, một thú tiêu khiển đủ dễ chịu. Buổi tối dưới ánh nến, hắn lấy giấy tờ ra, chuốt bút lông và viết một trang hay hai về người của hắn, người gửi về các bản tường trình về những con vịt nhử của Lincolnshire, và về cỗ máy tử thần khổng lồ ở Halifax, mà người ta có thể thoát nếu trước khi lưỡi dao khủng khiếp rơi xuống có thể bật dậy và lao xuống đồi, và về vô số những điều khác nữa. Mỗi nơi hắn đi qua đều được hắn gửi về một bản tường trình, đó là công việc đầu tiên của anh chàng bận rộn này.
Dạo bước dọc theo tường cảng, suy ngẫm về cỗ máy ở Halifax, hắn, Robin, người mà con vẹt từng gọi là tội nghiệp Robin, thả một viên sỏi và lắng nghe. Một giây, chưa đầy một giây, trước khi nó chạm mặt nước. Ân sủng của Chúa thì nhanh, nhưng lưỡi dao lớn bằng thép đã được tôi luyện kia, nặng hơn viên sỏi và được bôi mỡ, chẳng lẽ không nhanh hơn sao. Làm sao chúng ta có thể thoát khỏi nó. Và đó là giống người nào, kẻ sẽ bận rộn lao đi đây đó khắp vương quốc, từ cảnh tượng tử vong này sang cảnh tượng tử vong khác, đánh chết, chặt đầu, gửi về hết bản tường trình này đến bản tường trình khác.
Một người làm ăn, hắn tự nghĩ. Hãy để anh ta là một người làm ăn, một thương nhân buôn ngũ cốc hay buôn da, chẳng hạn; hoặc một nhà sản xuất và cung ứng ngói lợp ở một nơi nào đó nhiều đất sét, Wapping chẳng hạn, người phải đi lại nhiều vì lợi ích của việc buôn bán. Hãy khiến anh ta thịnh vượng, cho anh ta một người vợ yêu thương anh ta và không nói quá nhiều và sinh cho anh ta con cái, chủ yếu là con gái; cho anh ta một hạnh phúc vừa phải; rồi hãy đột ngột chấm dứt hạnh phúc ấy. Sông Thames dâng cao vào một mùa đông, các lò nung nơi ngói được nung bị cuốn trôi, hoặc các kho ngũ cốc, hoặc các xưởng da; anh ta phá sản, người của hắn ấy, các chủ nợ đổ xuống anh ta như ruồi hay như quạ, anh ta phải trốn chạy khỏi nhà mình, vợ mình, con mình, và tìm nơi ẩn náu trong những khu nhà tồi tàn nhất ở Beggars Lane dưới một cái tên giả và trong cải trang. Và tất cả những điều đó, làn nước, sự phá sản, cuộc đào thoát, cảnh trắng tay, áo quần rách rưới, sự cô độc, hãy để tất cả những điều đó trở thành một hình tượng của vụ đắm tàu và hòn đảo nơi hắn, tội nghiệp Robin, đã bị tách biệt khỏi thế giới trong hai mươi sáu năm, cho đến khi hắn gần như phát điên, và quả thật, ai dám nói rằng hắn đã không, ở một mức độ nào đó.
Hoặc hãy để người ấy là một người thợ làm yên ngựa, có nhà, cửa hàng và kho hàng ở Whitechapel, có một nốt ruồi trên cằm và một người vợ yêu thương anh ta và không nói nhiều, sinh cho anh ta con cái, chủ yếu là con gái, và đem lại cho anh ta nhiều hạnh phúc, cho đến khi dịch hạch giáng xuống thành phố, đó là năm 1665, đại hỏa hoạn London vẫn chưa xảy ra. Dịch hạch giáng xuống London: từng ngày, từng giáo xứ, số người chết tăng lên, giàu và nghèo, bởi dịch hạch không phân biệt giai tầng, toàn bộ của cải trần thế của người thợ làm yên ngựa này cũng không cứu được anh ta. Anh ta đưa vợ và các con gái về miền quê và lên kế hoạch tự mình trốn chạy, nhưng rồi lại không. Ngươi chớ sợ sự kinh hãi ban đêm, anh ta đọc, mở Kinh Thánh một cách ngẫu nhiên, cũng không sợ mũi tên bay ban ngày; không sợ dịch bệnh lẩn khuất trong bóng tối; cũng không sợ sự hủy diệt tàn phá lúc chính ngọ. Dù một nghìn người ngã xuống bên cạnh ngươi, và mười nghìn người ngã bên tay phải ngươi, tai họa cũng sẽ không đến gần ngươi.
Lấy lại can đảm từ dấu hiệu ấy, một dấu hiệu của sự an toàn, anh ta ở lại London đang bị giày vò và bắt tay vào viết các bản tường trình. Tôi gặp một đám đông trên phố, anh ta viết, và một người phụ nữ ở giữa họ chỉ lên trời. Hãy xem, bà ta kêu lên, một thiên thần mặc áo trắng đang vung một thanh gươm rực lửa. Và cả đám đông gật gù với nhau, Quả đúng như vậy, họ nói, một thiên thần với thanh gươm. Nhưng anh ta, người thợ làm yên ngựa, không thấy thiên thần nào, không thấy gươm nào. Tất cả những gì anh ta thấy chỉ là một đám mây có hình dạng kỳ lạ, sáng hơn ở một phía so với phía kia, do ánh mặt trời chiếu rọi.
Đó là một ẩn dụ, người phụ nữ trên phố kêu lên; nhưng anh ta không thể nào nhìn ra được ẩn dụ ấy. Thế là trong bản tường trình của anh ta.
Vào một ngày khác, đi dọc bờ sông ở Wapping, người của hắn, kẻ trước kia là một người thợ làm yên ngựa nhưng giờ đây không còn nghề nghiệp, quan sát thấy một người phụ nữ từ cửa nhà mình gọi với ra một người đàn ông đang chèo một chiếc thuyền nan: Robert. Robert. bà ta gọi; và thấy người đàn ông chèo thuyền vào bờ, rồi từ chiếc thuyền nan lấy lên một cái bao mà anh ta đặt trên một tảng đá bên bờ sông, rồi chèo đi; và thấy người phụ nữ bước xuống bờ sông và nhặt lấy cái bao và mang về nhà, trông vô cùng sầu thảm.
Anh ta bắt chuyện với người đàn ông tên Robert và nói chuyện với anh ta. Robert cho biết người phụ nữ là vợ anh ta và cái bao chứa đồ tiếp tế cho một tuần cho bà và các con, thịt và bột và bơ; nhưng anh ta không dám lại gần hơn, bởi tất cả họ, vợ và con, đều mắc dịch hạch; và điều đó làm anh ta tan nát cõi lòng. Và tất cả những điều này, người đàn ông Robert và người vợ giữ liên lạc với nhau qua những tiếng gọi qua mặt nước, cái bao được đặt bên bờ sông, dĩ nhiên tự nó đã đủ ý nghĩa, nhưng đồng thời cũng là một hình tượng cho sự cô độc của hắn, Robinson, trên hòn đảo của mình, nơi trong giờ phút tuyệt vọng tăm tối nhất hắn đã gọi với qua những con sóng về phía những người thân yêu ở nước Anh để cầu cứu, và những lúc khác lại bơi ra xác tàu để tìm đồ tiếp tế.
Những bản tường trình khác nữa từ thời kỳ đau thương ấy. Không còn chịu nổi nỗi đau từ những chỗ sưng ở bẹn và nách là dấu hiệu của dịch hạch, một người đàn ông chạy ra ngoài tru tréo, trần truồng hoàn toàn, lao ra phố, vào Harrow Alley ở Whitechapel, nơi người của hắn, người thợ làm yên ngựa, chứng kiến cảnh anh ta nhảy nhót và múa may và làm ra hàng nghìn cử chỉ kỳ quái, vợ và con anh ta chạy theo sau, kêu khóc, gọi anh ta quay lại. Và sự nhảy nhót múa may ấy là một ẩn dụ cho chính sự nhảy nhót múa may của hắn khi, sau thảm họa đắm tàu và sau khi hắn đã rà soát bãi biển để tìm dấu vết của những bạn đồng hành trên tàu và không tìm thấy ai, ngoại trừ một đôi giày không phải là một cặp, hắn hiểu ra rằng mình đã bị dạt lên một hòn đảo hoang dã, có thể sẽ chết và không có hy vọng cứu rỗi.
(Nhưng ngoài sự hoang tàn của mình, hắn tự hỏi, người đàn ông khốn khổ mà hắn đọc kia còn bí mật cất lên bài ca gì nữa. Hắn đang gọi điều gì, qua làn nước và qua năm tháng, từ ngọn lửa riêng tư của mình.)
Một năm trước, hắn, Robinson, đã trả hai đồng guinea cho một thủy thủ để mua một con vẹt mà người thủy thủ nói là đã mang về từ Brazil, một con chim không lộng lẫy bằng sinh vật yêu dấu của hắn nhưng vẫn rực rỡ không kém, với bộ lông xanh và mào đỏ thắm, và cũng là một con chim nói nhiều, nếu lời người thủy thủ là đáng tin. Và quả thật con chim ngồi trên chỗ đậu trong phòng trọ của hắn, với một sợi xích nhỏ buộc vào chân phòng khi nó định bay đi, và lặp đi lặp lại những lời Tội nghiệp Poll. Tội nghiệp Poll. cho đến khi hắn buộc phải trùm khăn lên đầu nó; nhưng không thể dạy nó nói bất kỳ từ nào khác, chẳng hạn Tội nghiệp Robin, có lẽ vì nó đã quá già cho việc đó.
Tội nghiệp Poll, nhìn ra ngoài qua ô cửa sổ hẹp phía trên những cột buồm, và phía xa hơn những cột buồm, trên làn sóng xám xịt của Đại Tây Dương: Đây là hòn đảo nào, Tội nghiệp Poll hỏi, nơi ta bị dạt đến, lạnh lẽo, ảm đạm như vậy. Hỡi Đấng Cứu Thế của ta, Người đã ở đâu trong giờ phút khốn cùng nhất của ta.
Một người đàn ông, vì say rượu và vì đã khuya, một trong những bản tường trình khác của người của hắn, ngủ thiếp đi trong một ô cửa ở Cripplegate. Chiếc xe chở xác chết đi ngang qua, chúng ta vẫn đang ở trong năm của dịch hạch, và những người hàng xóm, nghĩ rằng người đàn ông đã chết, đặt anh ta lên xe giữa các tử thi. Một lúc sau chiếc xe đến hố chôn người chết ở Mountmill và người đánh xe, mặt bịt kín để chống lại mùi xú uế, nắm lấy anh ta để ném xuống; và anh ta tỉnh dậy và vùng vẫy trong cơn hoang mang. Tôi đang ở đâu. anh ta nói. Anh sắp bị chôn cùng với những người chết. người đánh xe nói. Nhưng vậy thì tôi đã chết chưa. người đàn ông hỏi. Và điều này cũng là một hình tượng cho hắn trên hòn đảo của mình.
Một số người London vẫn tiếp tục công việc của họ, nghĩ rằng họ khỏe mạnh và sẽ được bỏ qua. Nhưng trong bí mật, họ mang dịch hạch trong máu mình: khi nhiễm trùng chạm đến tim họ, họ ngã gục và chết ngay tại chỗ, người của hắn tường trình, như thể bị sét đánh. Và đây là một hình tượng cho chính đời sống, toàn bộ đời sống. Sự chuẩn bị thích đáng. Chúng ta nên chuẩn bị thích đáng cho cái chết, nếu không sẽ bị đánh gục ngay tại chỗ. Như hắn, Robinson, đã buộc phải nhận ra khi đột ngột, trên hòn đảo của mình, một ngày nọ hắn bắt gặp dấu chân người trên cát. Đó là một dấu in, và do đó là một dấu hiệu: của một bàn chân, của một con người. Nhưng đó cũng là dấu hiệu của nhiều điều khác nữa. Ngươi không đơn độc, dấu hiệu ấy nói; và đồng thời, Dù ngươi có dong buồm đi xa đến đâu, dù ngươi có ẩn mình ở nơi nào, ngươi cũng sẽ bị truy tìm.
Trong năm của dịch hạch, người của hắn viết, những người khác, vì kinh hãi, đã bỏ lại tất cả, nhà cửa, vợ con, và chạy trốn xa khỏi London nhất có thể. Khi dịch hạch qua đi, cuộc đào thoát của họ bị lên án là hèn nhát từ mọi phía. Nhưng, người của hắn viết, chúng ta quên mất rằng cần đến loại dũng khí nào để đối diện với dịch hạch. Đó không phải là thứ dũng khí đơn thuần của người lính, như nắm chặt vũ khí và xông vào kẻ thù: mà giống như xông thẳng vào Thần Chết trên con ngựa tái nhợt của hắn.
Ngay cả khi ở trạng thái tốt nhất, con vẹt trên đảo của hắn, con được yêu quý hơn trong hai con, cũng không nói ra một lời nào mà nó không được chủ nhân dạy nói. Vậy thì làm sao mà người của hắn, kẻ giống như một con vẹt và không được yêu quý mấy, lại viết hay ngang hoặc hơn cả chủ nhân của mình. Bởi anh ta cầm bút rất vững, người của hắn ấy, không có gì phải nghi ngờ. Xông thẳng vào Thần Chết trên con ngựa tái nhợt của hắn. Đó là những lời mà hắn sẽ không bao giờ nghĩ ra. Kỹ năng của chính hắn, học được trong phòng kế toán, là ghi chép sổ sách và tính toán, không phải là trau chuốt câu chữ. Thần Chết trên con ngựa tái nhợt của hắn: đó là những lời chỉ xuất hiện khi hắn phó mặc mình cho người của hắn.
Và những con vịt nhử, hay duckoy: hắn, Robinson, biết gì về vịt nhử. Không gì cả, cho đến khi người của hắn bắt đầu gửi về các bản tường trình.
Những con vịt nhử của các vùng đầm lầy Lincolnshire, cỗ máy hành hình vĩ đại ở Halifax: các bản tường trình từ một chuyến du hành lớn mà người của hắn dường như đang thực hiện khắp đảo Anh, một hình tượng của chuyến du hành mà chính hắn đã thực hiện trên hòn đảo của mình bằng chiếc thuyền con mà hắn đóng, chuyến du hành cho thấy rằng hòn đảo còn có một mặt khác, hiểm trở và tối tăm và khắc nghiệt, mà về sau hắn luôn tránh né, mặc dù nếu trong tương lai những người định cư đến hòn đảo ấy thì có lẽ họ sẽ khám phá và định cư ở đó; điều đó cũng là một hình tượng, của mặt tối của tâm hồn và của ánh sáng.
Khi những toán đạo văn và bắt chước đầu tiên đổ xuống lịch sử hòn đảo của hắn và áp đặt lên công chúng những câu chuyện giả mạo của riêng họ về đời sống của kẻ bị đắm tàu, chúng đối với hắn chẳng khác gì một bầy ăn thịt người xông vào chính thịt da của hắn, nghĩa là vào cuộc đời hắn; và hắn không ngần ngại nói ra điều đó. Khi tôi tự vệ trước bọn ăn thịt người, những kẻ tìm cách đánh gục tôi và quay tôi và ăn thịt tôi, hắn viết, tôi nghĩ rằng tôi đang tự vệ trước chính sự vật ấy. Ít ngờ đâu, hắn viết, rằng những kẻ ăn thịt người này chỉ là những hình tượng của một cơn tham lam còn quỷ quyệt hơn, sẽ gặm nhấm đến tận bản chất của sự thật.
Nhưng giờ đây, suy ngẫm thêm, trong lòng hắn bắt đầu len vào một chút cảm thông đối với những kẻ bắt chước mình. Bởi giờ đây hắn thấy rằng trên đời chỉ có một số ít những câu chuyện; và nếu những người trẻ bị cấm không được săn mồi trên những người già thì họ sẽ phải ngồi im lặng mãi mãi.
Vì vậy trong bản tường thuật về những cuộc phiêu lưu trên đảo của mình, hắn kể rằng một đêm nọ hắn thức giấc trong nỗi kinh hoàng, tin rằng quỷ dữ đang đè lên hắn trên giường dưới hình dạng một con chó khổng lồ. Thế là hắn bật dậy, nắm lấy thanh mã tấu và chém loạn xạ để tự vệ trong khi con vẹt tội nghiệp ngủ bên giường hắn thét lên vì hoảng sợ. Chỉ nhiều ngày sau hắn mới hiểu rằng không có con chó hay con quỷ nào đè lên hắn, mà đúng hơn là hắn đã bị một cơn bại liệt thoáng qua, và vì không thể cử động chân mình nên hắn kết luận rằng có một sinh vật nào đó đang duỗi dài trên nó. Từ sự kiện này, bài học dường như là rằng mọi tai ương, kể cả bại liệt, đều đến từ quỷ dữ và chính là quỷ dữ; rằng một sự viếng thăm của bệnh tật có thể được hình tượng hóa như một sự viếng thăm của quỷ dữ, hoặc của một con chó tượng trưng cho quỷ dữ, và ngược lại, sự viếng thăm được hình tượng hóa như một cơn bệnh, như trong câu chuyện về dịch hạch của người thợ làm yên ngựa; và vì vậy, không ai viết những câu chuyện về một trong hai điều ấy, quỷ dữ hay dịch hạch, lại nên bị lập tức bác bỏ như một kẻ giả mạo hay kẻ trộm.
Khi, nhiều năm trước, hắn quyết định ghi lại trên giấy câu chuyện về hòn đảo của mình, hắn nhận ra rằng từ ngữ không chịu đến, ngòi bút không chịu chảy, chính những ngón tay của hắn cũng cứng đờ và miễn cưỡng. Nhưng ngày qua ngày, từng bước từng bước, hắn đã làm chủ được công việc viết lách, cho đến khi vào thời những cuộc phiêu lưu với Friday ở phương bắc băng giá, các trang giấy tuôn ra dễ dàng, thậm chí không cần suy nghĩ.
Sự dễ dàng cũ kỹ ấy, than ôi, giờ đây đã rời bỏ hắn. Khi hắn ngồi xuống chiếc bàn viết nhỏ trước cửa sổ nhìn ra cảng Bristol, bàn tay hắn cảm thấy vụng về và cây bút là một công cụ xa lạ chẳng khác gì trước kia.
Liệu người kia, người của hắn, có thấy công việc viết lách dễ dàng hơn không. Những câu chuyện anh ta viết về vịt và các cỗ máy tử thần và London trong thời dịch hạch tuôn chảy khá trôi chảy; nhưng những câu chuyện của chính hắn ngày xưa cũng từng như thế. Có lẽ hắn đánh giá anh ta sai, gã đàn ông nhỏ nhắn, chải chuốt, với bước đi nhanh nhẹn và nốt ruồi trên cằm. Có lẽ ngay lúc này anh ta đang ngồi một mình trong một căn phòng thuê ở đâu đó trong vương quốc rộng lớn này, chấm bút và lại chấm bút, đầy nghi ngờ và do dự và những suy nghĩ lại.
Họ nên được hình dung như thế nào, người này và hắn. Như chủ và nô lệ. Như anh em, anh em sinh đôi. Như đồng đội. Hay như kẻ thù, đối thủ. Hắn sẽ đặt tên gì cho kẻ vô danh này, người mà hắn chia sẻ những buổi tối và đôi khi cả những đêm, kẻ chỉ vắng mặt vào ban ngày, khi hắn, Robin, dạo bước trên các bến tàu kiểm tra những chuyến hàng mới đến còn người của hắn phi ngựa khắp vương quốc để thực hiện những cuộc kiểm tra của mình.
Liệu người này, trong những chuyến du hành của mình, có bao giờ đến Bristol không. Hắn khao khát được gặp anh ta bằng xương bằng thịt, bắt tay anh ta, cùng anh ta dạo bước dọc bến cảng và lắng nghe khi anh ta kể về chuyến đi đến miền bắc tối tăm của hòn đảo, hoặc về những cuộc phiêu lưu của anh ta trong công việc viết lách. Nhưng hắn sợ rằng sẽ không có cuộc gặp gỡ nào, không phải trong kiếp này. Nếu hắn phải chấp nhận một hình ảnh tương đồng cho cả hai, người của hắn và hắn, hắn sẽ viết rằng họ giống như hai con tàu đang đi ngược hướng nhau, một hướng tây, một hướng đông. Hoặc tốt hơn, rằng họ là những thủy thủ làm việc trên dây chằng, người này trên một con tàu đi về phía tây, người kia trên một con tàu đi về phía đông. Những con tàu của họ đi lướt qua nhau, đủ gần để gọi với. Nhưng biển động, thời tiết giông bão: mắt họ bị quất bởi sóng biển, tay họ bị đốt rát bởi dây thừng, họ lướt qua nhau, quá bận rộn đến mức không kịp vẫy tay.
