Diễn từ Nobel Văn học 1991 – Viết và tồn tại, Nadine Gordimer
Diễn từ Nobel văn học 1991 của Nadine Gordimer không chỉ là bài phát biểu tri ân của tác giả khi nhận giải thưởng danh giá nhất trong làng văn chương thế giới.
| 38 phút đọc | lượt xem.
Diễn từ Nobel văn học không chỉ là bài phát biểu tri ân của những tác giả vĩ đại khi nhận giải thưởng danh giá nhất trong làng văn chương thế giới. Đó còn là những tuyên ngôn về nghệ thuật, về tầm nhìn triết học, về vai trò của văn chương trong đời sống tinh thần nhân loại. Qua từng diễn từ Nobel văn học, chúng ta không chỉ hiểu được con người của nhà văn mà còn nhận ra được mạch nguồn sáng tạo, nhận thức thời đại và trách nhiệm của người cầm bút với hiện thực xã hội.
Dưới đây là bản dịch Diễn từ Nobel Văn học 1991, chuyển ngữ trực tiếp từ nguyên văn lưu trữ tại Thư viện Nobel Prize. Ban biên tập ưu tiên sử dụng bản gốc của tác giả làm cơ sở dịch thuật, trong trường hợp văn bản được viết bằng ngôn ngữ phi Latin (như tiếng Nhật, tiếng Hàn…) thì sử dụng bản Diễn từ Nobel Văn học tiếng Anh chính thức do Nobel Prize công bố.
Tiếng nói Nadine Gordimer chống lại chế độ phân biệt chủng tộc ở Nam Phi
Nadine Gordimer (1923 – 2014) là một trong những nhà văn quan trọng nhất của Nam Phi và là người phụ nữ thứ bảy được trao giải Nobel văn học. Bà sinh ngày 20 tháng 11 năm 1923 tại Springs, một thị trấn khai thác mỏ nhỏ gần Johannesburg, trong một gia đình Do Thái nhập cư từ châu Âu. Cha bà là người Lithuania và mẹ là người Anh, cả hai đều đến Nam Phi để tìm kiếm cơ hội kinh tế tốt hơn. Gordimer lớn lên trong xã hội Nam Phi dưới chế độ phân biệt chủng tộc Apartheid, một hệ thống phân chia chặt chẽ dựa trên màu da và nguồn gốc chủng tộc. Trải nghiệm sống trong xã hội bất công này đã hình thành nên ý thức chính trị và đạo đức sâu sắc của bà, trở thành động lực chính cho sự nghiệp sáng tác suốt đời. Năm 1991, Nadine Gordimer được trao giải Nobel văn học vì những sử thi có ích lợi to lớn cho nhân loại, công nhận những đóng góp văn học của bà trong việc phơi bày sự tàn bạo của chế độ phân biệt chủng tộc và đấu tranh cho công lý xã hội.
Nhà văn và nhà hoạt động chống Apartheid
Nadine Gordimer bắt đầu viết truyện ngắn từ khi còn rất trẻ, tác phẩm đầu tiên được xuất bản trên tạp chí khi bà mới mười lăm tuổi. Sự nghiệp văn học của bà chính thức bắt đầu với tập truyện ngắn Face to Face được xuất bản năm 1949, tiếp theo là tiểu thuyết đầu tay The Lying Days (Những ngày dối trá, 1953). Từ đó, Gordimer không ngừng sáng tác và xuất bản đều đặn, tạo nên một kho tàng văn học phong phú với hơn mười lăm tiểu thuyết và nhiều tập truyện ngắn. Tác phẩm của bà đặc trưng bởi khả năng quan sát tinh tế về xã hội Nam Phi, với những phân tích sâu sắc về mối quan hệ giữa các chủng tộc, giai cấp và giới tính trong bối cảnh chính trị đầy căng thẳng của chế độ Apartheid. Gordimer không chỉ đơn thuần mô tả hiện thực xã hội mà còn khám phá chiều sâu tâm lý của các nhân vật, đặc biệt là những người da trắng tiến bộ phải đối mặt với mâu thuẫn giữa đặc quyền chủng tộc và lương tâm đạo đức.
Ngoài sáng tác văn học, Nadine Gordimer còn là một nhà hoạt động tích cực chống lại chế độ phân biệt chủng tộc. Bà tham gia nhiều tổ chức và phong trào đấu tranh cho quyền công dân, bao gồm Đại hội Dân tộc Châu Phi (African National Congress – ANC), tổ chức mà Nelson Mandela từng lãnh đạo. Gordimer dùng tiếng nói văn học của mình như một vũ khí để vạch trần bản chất tội ác của Apartheid, thách thức sự kiểm duyệt và đàn áp của chính phủ Nam Phi. Nhiều tác phẩm của bà bị cấm lưu hành trong nước, nhưng được đón nhận nồng nhiệt ở nước ngoài, giúp nâng cao nhận thức quốc tế về tình hình nhân quyền ở Nam Phi. Bà cũng hỗ trợ nhiều nhà văn và nghệ sĩ trẻ Nam Phi, đặc biệt là những người da đen bị hạn chế cơ hội sáng tác và xuất bản dưới chế độ phân biệt chủng tộc.
Cuộc đời Nadine Gordimer là minh chứng cho sự cam kết kiên định với công lý và nhân quyền. Bà không bao giờ rời bỏ Nam Phi dù có nhiều cơ hội sống ở nước ngoài trong những năm căng thẳng nhất của chế độ Apartheid. Gordimer tin rằng trách nhiệm của một nhà văn là phải chứng kiến và ghi chép lại lịch sử của đất nước mình, dù đau đớn đến đâu. Sau khi chế độ Apartheid sụp đổ năm 1994 và Nam Phi chuyển sang dân chủ dưới sự lãnh đạo của Nelson Mandela, Gordimer tiếp tục sáng tác và tham gia vào các vấn đề xã hội quan trọng như đại dịch HIV hoặc AIDS, nghèo đói và bất bình đẳng kinh tế. Bà được coi là một trong những nhà văn đạt giải Nobel văn học có ý thức chính trị rõ ràng nhất, người đã dùng nghệ thuật để phục vụ cho sự nghiệp giải phóng và công bằng xã hội.
Nghệ thuật khắc họa hiện thực phân biệt chủng tộc
Một trong những tiểu thuyết nổi tiếng nhất của Nadine Gordimer là Burger’s Daughter (Con gái của Burger, 1979), tác phẩm kể về Rosa Burger, con gái của một nhà hoạt động cộng sản da trắng đấu tranh chống Apartheid. Tiểu thuyết khám phá hành trình tâm lý phức tạp của Rosa khi cô cố gắng tìm kiếm bản sắc riêng ngoài cái bóng của người cha anh hùng và di sản chính trị nặng nề mà ông để lại. Tác phẩm này đặt ra những câu hỏi sâu sắc về trách nhiệm đạo đức, ý nghĩa của cam kết chính trị và giá phải trả cho lý tưởng. Burger’s Daughter bị chính phủ Nam Phi cấm ngay sau khi xuất bản, nhưng sau đó được dỡ bỏ lệnh cấm nhờ áp lực quốc tế, trở thành một trong những tác phẩm quan trọng nhất về thời kỳ Apartheid. Tiểu thuyết này thể hiện tài năng của Gordimer trong việc kết hợp chính trị và nghệ thuật, tạo ra những nhân vật sống động với tâm lý phức tạp và những tình huống đạo đức khó xử.
Một tác phẩm quan trọng khác là July’s People (Người của July, 1981), một tiểu thuyết giả tưởng về một gia đình da trắng thuộc giai cấp trung lưu phải trốn chạy đến ngôi làng xa xôi của người hầu da đen July khi cuộc nổi dậy chống Apartheid bùng nổ. Trong hoàn cảnh mới này, các mối quan hệ quyền lực bị đảo ngược, và gia đình da trắng phải sống dưới sự bảo hộ và quy tắc của cộng đồng da đen. Tiểu thuyết khám phá cách thức mà chế độ phân biệt chủng tộc đã xâm nhập sâu vào tâm lý và mối quan hệ xã hội, ngay cả đối với những người da trắng có thiện chí. Gordimer cho thấy rằng việc lật đổ hệ thống không chỉ đơn thuần là thay đổi cấu trúc chính trị mà còn đòi hỏi một cuộc cách mạng tâm lý và văn hóa sâu xa. July’s People được đánh giá cao về khả năng dự đoán và phân tích chính trị, cũng như nghệ thuật tạo dựng không khí căng thẳng và mơ hồ đạo đức.
Ủy ban Nobel đánh giá cao khả năng của Nadine Gordimer trong việc kết hợp nghệ thuật tiểu thuyết với trách nhiệm xã hội, tạo ra những tác phẩm vừa có giá trị văn học cao vừa có ý nghĩa chính trị sâu sắc. Các tiểu thuyết của bà không phải là tuyên truyền chính trị thô thiển mà là những nghiên cứu tinh tế về tâm lý con người trong bối cảnh xã hội bất công. Gordimer đặc biệt quan tâm đến những nhân vật da trắng tiến bộ, những người phải đối mặt với mâu thuẫn giữa đặc quyền chủng tộc và lương tâm đạo đức, giữa cam kết chính trị và cuộc sống cá nhân. Những nhân vật này không phải là anh hùng hoàn hảo mà là những con người đầy mâu thuẫn và yếu đuối, điều này khiến họ trở nên chân thực và gây được sự đồng cảm từ độc giả. Thông qua nghệ thuật khắc họa nhân vật và tình huống, Gordimer đã tạo ra những tác phẩm có sức thuyết phục mạnh mẽ về sự tàn bạo của chế độ phân biệt chủng tộc và nhu cầu cấp thiết cho sự thay đổi xã hội.
Sức ảnh hưởng của Nadine Gordimer trên văn đàn thế giới và di sản đấu tranh
Nadine Gordimer đã có ảnh hưởng to lớn đến văn học Châu Phi và văn học hậu thuộc địa nói chung. Bà là một trong những nhà văn đầu tiên đưa văn học Nam Phi ra sân khấu thế giới, giúp độc giả quốc tế hiểu rõ hơn về phức tạp của xã hội Châu Phi dưới chế độ thực dân và phân biệt chủng tộc. Các tác phẩm của bà đã trở thành nguồn tài liệu quan trọng cho việc nghiên cứu lịch sử và xã hội Nam Phi, cũng như cho các cuộc tranh luận về văn học và chính trị, về vai trò của nghệ sĩ trong xã hội và về đạo đức của nghệ thuật cam kết. Nhiều nhà văn Châu Phi thế hệ sau đã lấy cảm hứng từ phong cách và tinh thần của Gordimer, học cách kết hợp nghệ thuật với trách nhiệm xã hội trong sáng tác của mình.
Ngoài đóng góp văn học, Gordimer còn là một tiếng nói quan trọng trong cuộc đấu tranh quốc tế chống lại chế độ Apartheid. Bà thường xuyên phát biểu tại các diễn đàn quốc tế, viết bài cho các tạp chí và báo chí nước ngoài, góp phần nâng cao nhận thức và huy động sự ủng hộ cho phong trào chống phân biệt chủng tộc ở Nam Phi. Khi nhận giải Nobel văn học năm 1991, chỉ ba năm trước khi chế độ Apartheid chính thức kết thúc, Gordimer đã sử dụng diễn đàn này để kêu gọi cộng đồng quốc tế tiếp tục gây áp lực lên chính phủ Nam Phi và ủng hộ quá trình chuyển đổi dân chủ. Giải thưởng này không chỉ là sự công nhận tài năng văn học của bà mà còn là một thông điệp chính trị mạnh mẽ ủng hộ cuộc đấu tranh cho tự do và công bằng xã hội ở Nam Phi.
Di sản của Nadine Gordimer vượt xa những tác phẩm văn học xuất sắc mà bà để lại. Bà đã chứng minh rằng văn học có thể là một công cụ mạnh mẽ cho sự thay đổi xã hội, rằng nghệ sĩ có thể và nên đóng vai trò tích cực trong các cuộc đấu tranh chính trị và đạo đức của thời đại mình. Gordimer đã truyền cảm hứng cho nhiều thế hệ nhà văn không chỉ ở Châu Phi mà còn trên toàn thế giới, những người tin rằng nghệ thuật không thể tách rời khỏi cuộc sống và rằng sáng tác văn học là một hình thức cam kết với nhân loại. Sau cái chết của bà năm 2014, Gordimer được tưởng nhớ không chỉ như một trong những nhà văn đạt giải Nobel văn học xuất sắc nhất mà còn như một chiến sĩ kiên cường cho tự do và công lý trong suốt cuộc đời.
Viết và tồn tại, Nadine Gordimer
Khởi nguyên là Ngôn từ.
Ngôn từ ở cùng Thượng Đế, biểu trưng cho ngôn từ của Thượng Đế, ngôn từ chính là Sáng thế. Nhưng qua hàng thế kỷ của văn hóa nhân loại, ngôn từ đã mang thêm những ý nghĩa khác, vừa thế tục vừa tôn giáo. Sở hữu ngôn từ đã trở thành đồng nghĩa với quyền lực tối thượng, với uy tín, với sức thuyết phục ghê gớm, đôi khi nguy hiểm, với việc có giờ vàng, một chương trình trò chuyện truyền hình, với tài ăn nói lưu loát cũng như khả năng nói tiếng lạ. Ngôn từ bay xuyên không gian, được dội lại từ các vệ tinh, giờ đây gần thiên đường hơn bao giờ hết, nơi người ta từng tin rằng nó đã từ đó mà đến. Nhưng sự biến đổi quan trọng nhất của ngôn từ, đối với tôi và những người cùng loại với tôi, đã xảy ra từ rất lâu, khi nó lần đầu tiên được khắc lên phiến đá hay vạch trên giấy cói, khi nó hiện hình từ âm thanh thành cảnh tượng, từ cái được nghe thành cái được đọc như một chuỗi ký hiệu, rồi thành văn tự, và du hành qua thời gian từ da dê đến Gutenberg. Bởi đây chính là câu chuyện sáng thế của nhà văn. Đó là câu chuyện đã viết nên sự tồn tại của cô ấy hay anh ấy.
Một cách kỳ lạ, đó là một tiến trình kép, đồng thời tạo ra cả nhà văn lẫn chính mục đích của nhà văn như một biến dị trong tác nhân của văn hóa nhân loại. Đó vừa là sinh thể phát sinh, như nguồn gốc và sự phát triển của một cá thể, vừa là sự thích nghi, trong bản chất của cá thể ấy, một cách đặc thù cho việc thăm dò sinh thể phát sinh, nguồn gốc và sự phát triển của cá thể. Bởi chúng tôi, những người viết, được tiến hóa cho nhiệm vụ đó. Giống như những tù nhân bị giam cùng con báo đốm trong truyện của Jorge Luis Borges, Ký tự của Thượng Đế, kẻ đã cố đọc, trong một tia sáng chỉ rọi xuống mỗi ngày một lần, ý nghĩa của tồn tại từ những vệt hoa văn trên bộ lông của sinh vật, chúng tôi dành cả đời mình để cố gắng diễn giải, thông qua ngôn từ, những gì chúng tôi tiếp nhận từ các xã hội, từ thế giới mà chúng tôi là một phần. Chính trong ý nghĩa này, trong sự tham dự không thể tách rời, không thể diễn đạt trọn vẹn ấy, mà viết luôn đồng thời là sự thăm dò bản thân và thế giới, của tồn tại cá nhân và tồn tại tập thể.
Tồn tại ở đây.
Con người, loài động vật duy nhất tự ý thức, được ban phúc hoặc bị nguyền rủa bởi năng lực cao cấp đầy giày vò này, từ lâu đã luôn muốn biết tại sao. Và điều đó không chỉ là câu hỏi bản thể luận lớn lao về lý do tại sao chúng ta tồn tại nói chung, điều mà các tôn giáo và triết học đã cố gắng trả lời dứt khoát cho các cộng đồng khác nhau vào những thời điểm khác nhau, và khoa học thì dè dặt đưa ra những mảnh giải thích rực rỡ mà có lẽ chúng ta sẽ tuyệt diệt trong thiên niên kỷ của mình, như loài khủng long, mà chưa phát triển được sự hiểu biết cần thiết để nắm bắt toàn thể. Kể từ khi con người trở nên tự ý thức, họ cũng tìm kiếm những lời giải thích cho các hiện tượng phổ quát của sinh sản, cái chết, chu kỳ các mùa, đất, biển, gió và các vì sao, mặt trời và mặt trăng, sự sung túc và tai ương. Với thần thoại, tổ tiên của nhà văn, những người kể chuyện truyền khẩu, đã bắt đầu dò tìm và định hình những bí ẩn này, sử dụng các yếu tố của đời sống thường nhật – thực tại có thể quan sát – và năng lực của trí tưởng tượng – sức mạnh phóng chiếu vào cái ẩn giấu – để tạo nên những câu chuyện.
Roland Barthes (1915 – 1980) đặt câu hỏi: Đặc trưng của thần thoại là gì? Và trả lời: Biến một ý nghĩa thành một hình thức. Thần thoại là những câu chuyện trung gian theo cách đó giữa cái đã biết và cái chưa biết. Claude Lévi–Strauss (1908 – 2009) hóm hỉnh giải huyền thần thoại như một thể loại nằm giữa truyện cổ tích và truyện trinh thám. Tồn tại ở đây; chúng ta không biết ai đã gây ra chuyện đó. Nhưng có thể bịa ra một điều gì đó thỏa đáng, nếu không phải là câu trả lời. Thần thoại là bí ẩn cộng với tưởng tượng – các vị thần, động vật và chim chóc được nhân hình hóa, các loài lai, các sinh vật huyễn tưởng – đặt ra từ trí tưởng tượng một dạng giải thích nào đó cho bí ẩn. Con người và các sinh vật đồng loại của họ là chất liệu của câu chuyện, nhưng như Nikos Kazantzakis (1883 – 1957) từng viết: Nghệ thuật không phải là sự tái hiện thân thể mà là các lực đã tạo nên thân thể.
Ngày nay đã có nhiều lời giải thích được chứng minh cho các hiện tượng tự nhiên; và từ một số câu trả lời lại nảy sinh những câu hỏi mới về tồn tại. Vì lý do đó, thể loại thần thoại chưa bao giờ hoàn toàn bị từ bỏ, mặc dù chúng ta có xu hướng xem nó là cổ xưa. Nếu ở một số xã hội, nó thu hẹp thành những câu chuyện ru ngủ trẻ em, thì ở những vùng đất được rừng rậm hay sa mạc che chở khỏi siêu văn hóa toàn cầu, nó vẫn tiếp tục sống động, mang đến nghệ thuật như một hệ thống trung gian giữa cá nhân và tồn tại. Và nó đã quay trở lại cuồng xoáy từ không gian, một Icarus trong hình hài của Batman và những kẻ cùng loại, những kẻ không bao giờ rơi xuống đại dương thất bại khi đối diện với lực hấp dẫn của đời sống. Tuy nhiên, những thần thoại mới này không tìm cách khai sáng và đưa ra câu trả lời, mà chủ yếu để đánh lạc hướng, để cung cấp một lối thoát tưởng tượng cho những con người không còn muốn đối diện dù chỉ với nguy cơ của những câu trả lời cho nỗi kinh hoàng của sự tồn tại của họ. Có lẽ chính tri thức tích cực rằng con người nay đã sở hữu phương tiện hủy diệt toàn bộ hành tinh của mình, nỗi sợ rằng theo cách đó họ tự biến mình thành các vị thần, mang gánh nặng kinh hoàng của chính sự tiếp tục tồn tại của mình, đã khiến thần thoại truyện tranh và điện ảnh trở thành lối thoát. Các lực của tồn tại vẫn còn đó. Chúng là điều mà nhà văn, khác với người làm thần thoại đại chúng đương thời, vẫn tiếp tục đối diện ngày nay, như thần thoại ở hình thức cổ xưa từng cố gắng làm.
Cách các nhà văn tiếp cận sự đối diện này và tiếp tục thử nghiệm với nó đã và đang, có lẽ hơn bao giờ hết, trở thành đối tượng nghiên cứu của các học giả văn học. Nhà văn trong mối quan hệ với bản chất của thực tại có thể tri giác và cái vượt ra ngoài – thực tại không thể tri giác – là nền tảng cho tất cả những nghiên cứu này, bất kể các khái niệm kết quả được gắn nhãn ra sao, và bất kể các nhà văn bị xếp vào những hồ sơ vi mô phân loại nào trong biên niên sử sử học văn học. Thực tại được cấu thành từ nhiều yếu tố và thực thể, hữu hình và vô hình, được biểu đạt và để lại khoảng trống chưa biểu đạt cho tâm trí hô hấp. Tuy nhiên, từ cái được coi là phân tâm học lỗi thời đến chủ nghĩa hiện đại và hậu hiện đại, cấu trúc luận và hậu cấu trúc luận, mọi nghiên cứu văn học đều nhằm tới cùng một đích: ghim chặt vào một sự nhất quán (và nhất quán là gì nếu không phải là nguyên lý ẩn trong câu đố); làm cho sự nắm bắt các lực của tồn tại của nhà văn trở nên xác định thông qua phương pháp luận. Nhưng đời sống tự thân là ngẫu nhiên; tồn tại liên tục bị kéo và định hình theo hướng này hay hướng khác bởi hoàn cảnh và các cấp độ ý thức khác nhau. Không có trạng thái tồn tại thuần khiết, và theo đó không có văn bản thuần khiết, văn bản thực, hoàn toàn bao hàm cái ngẫu nhiên. Chắc chắn không thể đạt tới điều đó bằng bất kỳ phương pháp phê bình nào, dù nỗ lực ấy có thú vị đến đâu. Giải cấu trúc một văn bản, theo một cách nào đó, là một mâu thuẫn, bởi giải cấu trúc nó là tạo ra một cấu trúc khác từ các mảnh vỡ, như Roland Barthes đã làm một cách đầy mê hoặc, và thừa nhận, trong cuộc giải phẫu ngôn ngữ và ngữ nghĩa của ông đối với truyện Sarrasine của Honoré de Balzac (1799 – 1850). Vì thế, các học giả văn học cuối cùng cũng trở thành một dạng người kể chuyện.
Có lẽ không có con đường nào khác để đạt tới một sự hiểu biết nào đó về tồn tại ngoài nghệ thuật. Bản thân các nhà văn không phân tích những gì họ làm; phân tích sẽ giống như nhìn xuống trong khi đang băng qua một hẻm núi trên dây thăng bằng. Nói như vậy không phải để huyền bí hóa tiến trình viết, mà để tạo ra một hình ảnh về sự tập trung nội tâm mãnh liệt mà nhà văn phải có để vượt qua các vực sâu của cái ngẫu nhiên và biến chúng thành sở hữu của ngôn từ, như một nhà thám hiểm cắm lá cờ. Xung lực cô độc của niềm hoan lạc trong chuyến bay đơn độc của phi công nơi William Butler Yeats (1865 – 1939), và vẻ đẹp khủng khiếp sinh ra từ cuộc nổi dậy quần chúng, vừa đối lập vừa gắn kết; chỉ kết nối thôi khiêm nhường của Edward Morgan Forster (1879 – 1970); im lặng, xảo quyệt và lưu đày được lựa chọn của James Joyce (1882 – 1941); gần đây hơn, mê cung của Gabriel García Márquez (1927 – 2014) nơi quyền lực đối với kẻ khác, trong hình hài Simón Bolívar, bị dẫn dắt đến sự nô lệ của quyền lực duy nhất không thể xâm phạm, cái chết – đó là vài ví dụ về những cách tiếp cận vô cùng đa dạng của nhà văn đối với trạng thái tồn tại thông qua ngôn từ. Bất kỳ nhà văn nào có chút giá trị nào cũng chỉ mong chiếu một ngọn đèn pin nhỏ của ánh sáng – và hiếm hoi, nhờ thiên tài, một ngọn đuốc bùng sáng – vào mê cung đẫm máu mà tuyệt đẹp của kinh nghiệm nhân loại, của tồn tại.
Anthony Burgess (1917 – 1993) từng đưa ra một định nghĩa tóm lược về văn học như sự thăm dò thẩm mỹ của thế giới. Tôi sẽ nói rằng viết chỉ mới bắt đầu từ đó, cho sự thăm dò vượt xa hơn nhiều, dù chỉ có thể được biểu đạt bằng những phương tiện thẩm mỹ.
Nhà văn trở thành nhà văn như thế nào, khi đã được ban cho ngôn từ? Tôi không biết liệu những khởi đầu của riêng tôi có điều gì đặc biệt đáng quan tâm hay không. Chắc chắn chúng có nhiều điểm chung với những khởi đầu của người khác, đã được kể lại quá nhiều lần như một hệ quả của buổi tụ họp thường niên này, nơi trước đó một nhà văn đứng lên. Với tôi, tôi đã nói rằng không có điều gì mang tính sự kiện mà tôi viết hay nói lại chân thực bằng văn chương hư cấu của tôi. Cuộc đời, các quan điểm, không phải là tác phẩm, bởi chính trong sự căng thẳng giữa đứng ngoài và dấn thân mà trí tưởng tượng biến đổi cả hai. Hãy để tôi đưa ra một tường thuật tối thiểu về bản thân. Tôi là người mà có lẽ sẽ được gọi là một nhà văn tự nhiên. Tôi không đưa ra bất kỳ quyết định nào để trở thành nhà văn. Ban đầu, tôi không kỳ vọng kiếm sống bằng việc được đọc. Tôi viết khi còn là một đứa trẻ từ niềm vui nắm bắt đời sống qua các giác quan – cái nhìn, mùi hương và cảm giác của sự vật; và chẳng bao lâu sau, từ những cảm xúc khiến tôi bối rối hoặc cuộn trào trong tôi, và những cảm xúc ấy tìm được hình dạng, tìm được một sự soi sáng nào đó, một niềm an ủi và khoái cảm, được định hình trong ngôn từ viết ra. Có một ngụ ngôn nhỏ của Franz Kafka (1883 – 1924) như sau: Tôi có ba con chó: Giữ–nó, Bắt–nó, và Không–bao–giờ. Giữ–nó và Bắt–nó là những con chó Schipperke nhỏ bình thường và chẳng ai để ý đến chúng nếu chỉ có chúng thôi. Nhưng còn có Không–bao–giờ nữa. Không–bao–giờ là một con Đại Đan Mạch lai và có một diện mạo mà hàng thế kỷ chọn giống cẩn thận nhất cũng không thể tạo ra. Không–bao–giờ là một kẻ du mục. Trong thị trấn khai thác vàng nhỏ ở Nam Phi nơi tôi lớn lên, tôi là Không–bao–giờ, con lai tạp (dù tôi khó có thể được mô tả là một Đại Đan Mạch …), trong đó những đặc tính được chấp nhận của dân thị trấn không thể truy ra. Tôi là kẻ du mục, vá víu với ngôn từ cũ, sửa chữa những nỗ lực viết của mình bằng cách học từ những gì tôi đọc. Trường học của tôi là thư viện địa phương. Marcel Proust (1871 – 1922), Anton Chekhov (1860 – 1904) và Fyodor Dostoevsky (1821 – 1881), chỉ để nêu vài người mà tôi mắc nợ sự tồn tại của mình như một nhà văn, là những giáo sư của tôi. Trong giai đoạn đó của cuộc đời tôi, vâng, tôi là bằng chứng cho lý thuyết rằng sách được làm ra từ những cuốn sách khác… Nhưng tôi không ở lại trạng thái đó lâu, và tôi không tin rằng bất kỳ nhà văn tiềm năng nào có thể.
Tuổi vị thành niên mang đến sự vươn tới đầu tiên hướng về cái khác thông qua xung lực của tính dục. Với hầu hết trẻ em, từ đó trở đi năng lực tưởng tượng, thể hiện trong trò chơi, bị mất đi trong sự tập trung vào những giấc mơ ban ngày của ham muốn và tình yêu, nhưng với những ai sẽ trở thành nghệ sĩ theo cách này hay cách khác, khủng hoảng đời sống đầu tiên sau khủng hoảng sinh ra còn làm thêm một điều nữa: trí tưởng tượng mở rộng tầm và vươn xa nhờ sự uốn cong chủ quan của những cảm xúc mới mẻ và dữ dội. Có những tri giác mới. Nhà văn bắt đầu có khả năng bước vào những đời sống khác. Tiến trình đứng ngoài và dấn thân đã đến.
Không hề hay biết, tôi đã tự đặt mình vào chủ đề của tồn tại, cho dù, như trong những truyện đầu tay của tôi, đó là sự chiêm nghiệm của một đứa trẻ về cái chết và sự giết chóc trong sự cần thiết phải kết liễu, bằng một đòn chí mạng, một con bồ câu bị mèo vồ, hay đó là nỗi bàng hoàng và ý thức sớm về phân biệt chủng tộc đến từ con đường tôi đi bộ tới trường, khi trên đường tôi đi ngang qua các chủ cửa hàng, bản thân họ là những người nhập cư Đông Âu bị xếp thấp nhất trong thứ bậc xã hội Anglo–thuộc địa dành cho người da trắng trong thị trấn mỏ, và thô bạo hơn nữa, những kẻ mà xã hội thuộc địa xếp thấp nhất trong tất cả, bị coi là kém hơn con người – những thợ mỏ da đen là khách hàng của các cửa hàng ấy. Chỉ nhiều năm sau tôi mới nhận ra rằng nếu tôi là một đứa trẻ thuộc nhóm đó – da đen – có lẽ tôi đã không trở thành nhà văn, bởi thư viện đã khiến điều đó trở nên khả dĩ đối với tôi thì không mở cửa cho bất kỳ đứa trẻ da đen nào. Nền giáo dục chính quy của tôi, xét cho cùng, cũng rất chắp vá.
Tự hướng tới người khác mở ra giai đoạn phát triển tiếp theo của nhà văn. Xuất bản cho bất kỳ ai sẽ đọc những gì tôi viết. Đó là giả định tự nhiên, ngây thơ của tôi về ý nghĩa của việc xuất bản, và điều đó không thay đổi, đó vẫn là ý nghĩa của nó đối với tôi ngày nay, bất chấp nhận thức của tôi rằng hầu hết mọi người đều từ chối tin rằng một nhà văn không có một đối tượng độc giả cụ thể trong đầu; và nhận thức khác của tôi: về những cám dỗ, có ý thức và vô thức, lôi kéo nhà văn liếc mắt về phía ai sẽ bị xúc phạm, ai sẽ tán thành những gì có trên trang giấy – một cám dỗ mà, như cái liếc nhìn lạc hướng của Eurydice, sẽ dẫn nhà văn trở lại Cõi Bóng của một tài năng bị hủy hoại.
Sự lựa chọn thay thế không phải là lời nguyền của tháp ngà, một kẻ hủy diệt khác của sáng tạo. Jorge Luis Borges (1899 – 1986) từng nói rằng ông viết cho bạn bè và để giết thời gian. Tôi nghĩ đó là một phản ứng bực bội, bông lơn trước câu hỏi thô lỗ – thường là một lời buộc tội – Ông viết cho ai? cũng như lời khuyên của Jean–Paul Sartre (1905 – 1980) rằng có những lúc nhà văn nên ngừng viết và hành động theo một cách khác đối với tồn tại, được đưa ra trong sự thất vọng của một xung đột chưa được giải quyết giữa nỗi đau trước bất công trên thế giới và nhận thức rằng điều ông biết làm tốt nhất là viết. Cả Borges lẫn Sartre, từ hai cực hoàn toàn khác nhau của việc phủ nhận văn học một mục đích xã hội, đều hoàn toàn ý thức rằng văn học có vai trò xã hội hàm ẩn và không thể thay đổi trong việc thăm dò trạng thái tồn tại, từ đó mọi vai trò khác, cá nhân giữa bạn bè, công khai tại cuộc biểu tình, đều phát sinh. Borges không viết cho bạn bè, bởi ông đã xuất bản và tất cả chúng ta đều nhận được ân huệ từ tác phẩm của ông. Sartre không ngừng viết, dù ông đã đứng trên chiến lũy năm 1968.
Câu hỏi viết cho ai, dù vậy, vẫn ám ảnh nhà văn, như một cái lon thiếc buộc vào đuôi của mỗi tác phẩm được xuất bản. Trước hết, nó leng keng sự suy diễn về tính định hướng như là lời khen hay sự hạ thấp. Trong bối cảnh này, Albert Camus (1913 – 1960) đã xử lý câu hỏi ấy tốt nhất. Ông nói rằng ông thích những cá nhân đứng về một phía hơn là những nền văn học làm điều đó. Hoặc là người ta phục vụ toàn thể con người, hoặc là không phục vụ anh ta chút nào. Và nếu con người cần bánh mì và công lý, và nếu những gì phải làm thì phải được làm để phục vụ nhu cầu ấy, thì anh ta cũng cần vẻ đẹp thuần khiết, thứ bánh mì của trái tim. Vì thế Camus kêu gọi lòng dũng cảm trong tác phẩm và tài năng trong tác phẩm. Và Gabriel García Márquez (1927 – 2014) đã định nghĩa lại văn chương dấn thân như sau: Cách tốt nhất mà một nhà văn có thể phục vụ một cuộc cách mạng là viết hay nhất có thể.
Tôi tin rằng hai phát biểu này có thể là tín điều cho tất cả chúng ta, những người viết. Chúng không giải quyết những xung đột đã đến và sẽ tiếp tục đến với các nhà văn đương đại. Nhưng chúng nói rõ ràng một khả năng trung thực để làm điều đó, chúng quay khuôn mặt của nhà văn đối diện thẳng với sự tồn tại của cô ấy hay anh ấy, lý do để tồn tại như một nhà văn, và lý do để tồn tại như một con người có trách nhiệm, hành động, như bất kỳ ai khác, trong một bối cảnh xã hội.
Tồn tại ở đây: trong một thời gian và một không gian cụ thể. Đó là vị thế hiện sinh với những hệ quả đặc thù đối với văn học. Czesław Miłosz (1911 – 2004) từng viết lời kêu gọi: Thơ ca là gì nếu nó không phục vụ các dân tộc hay con người? và Bertolt Brecht (1898 – 1956) đã viết về một thời khi nói về cây cối gần như là một tội ác. Nhiều người trong chúng ta đã có những suy nghĩ tuyệt vọng như thế khi sống và viết qua những thời khắc ấy, ở những nơi chốn ấy, và giải pháp của Sartre không có ý nghĩa trong một thế giới nơi các nhà văn đã – và vẫn đang – bị kiểm duyệt và cấm viết, nơi, xa rời việc từ bỏ ngôn từ, mạng sống đã và đang bị đặt vào nguy hiểm trong việc tuồn nó ra ngoài, trên những mảnh giấy vụn, từ nhà tù. Trạng thái tồn tại mà chúng ta thăm dò nguồn gốc và sự phát triển đã bao hàm áp đảo những kinh nghiệm như vậy. Cách tiếp cận của chúng ta, theo lời Nikos Kazantzakis, phải đưa ra quyết định hài hòa với nhịp điệu đáng sợ của thời đại chúng ta.
Một số người trong chúng ta đã thấy sách của mình nằm nhiều năm không được đọc ở chính đất nước mình, bị cấm, và chúng tôi vẫn tiếp tục viết. Nhiều nhà văn đã bị cầm tù. Chỉ riêng nhìn vào châu Phi – Wole Soyinka (1934 – 2023), Ngũgĩ wa Thiong’o (1938 – ), Jack Mapanje (1944 – ), ở các quốc gia của họ, và ở chính đất nước tôi, Nam Phi, Jeremy Cronin (1949 – ), Mongane Wally Serote (1944 – ), Breyten Breytenbach (1939 – 2024), Dennis Brutus (1924 – 2009), Jaki Seroke (1952 – ): tất cả những người này đã vào tù vì lòng dũng cảm thể hiện trong đời sống của họ, và đã tiếp tục giành lấy quyền, như những nhà thơ, được nói về cây cối. Nhiều bậc vĩ đại, từ Thomas Mann (1875 – 1955) đến Chinua Achebe (1930 – 2013), bị xua đuổi bởi xung đột chính trị và áp bức ở các quốc gia khác nhau, đã chịu đựng chấn thương của lưu đày, từ đó một số không bao giờ hồi phục như nhà văn, và một số không sống sót. Tôi nghĩ đến những người Nam Phi, Can Themba (1924 – 1967), Alex La Guma (1925 – 1985), Nat Nakasa (1937 – 1965), Todd Matshikiza (1921 – 1968). Và một số nhà văn, trong hơn nửa thế kỷ từ Joseph Roth (1894 – 1939) đến Milan Kundera (1929 – 2023), đã phải xuất bản các tác phẩm mới trước tiên bằng ngôn từ không phải của họ, một ngôn ngữ ngoại quốc.
Rồi vào năm 1988, nhịp điệu đáng sợ của thời đại chúng ta tăng tốc trong một cơn cuồng loạn chưa từng có, nơi nhà văn bị triệu tập để khuất phục ngôn từ. Trong khoảng rộng của thời hiện đại kể từ Khai sáng, các nhà văn đã chịu sự bêu riếu, cấm đoán và thậm chí lưu đày vì những lý do không chỉ là chính trị. Gustave Flaubert (1821 – 1880) bị lôi ra tòa vì khiêu dâm với Bà Bovary (Madame Bovary, 1857), August Strindberg (1849 – 1912) bị truy tố vì báng bổ với Hôn nhân (Marrying, 1884), Người tình của phu nhân Chatterley (Lady Chatterley’s Lover, 1928) của D. H. Lawrence (1885 – 1930) bị cấm – đã có nhiều ví dụ về cái gọi là xúc phạm những chuẩn mực tư sản đạo đức giả, cũng như đã có những ví dụ về phản quốc đối với các chế độ độc tài chính trị. Nhưng trong một giai đoạn mà thật khó tưởng tượng các quốc gia như Pháp, Thụy Điển và Anh lại đưa ra những cáo buộc như vậy chống lại tự do biểu đạt, đã xuất hiện một thế lực lấy quyền uy ghê rợn của mình từ một thứ rộng khắp hơn nhiều so với chuẩn mực xã hội, và mạnh mẽ hơn nhiều so với quyền lực của bất kỳ chế độ chính trị đơn lẻ nào. Sắc lệnh của một tôn giáo thế giới đã kết án tử hình một nhà văn.
Trong hơn ba năm qua, dù ông đang ẩn náu ở đâu, dù ông có thể đi đâu, Salman Rushdie (1947 – ) đã tồn tại dưới phán quyết Hồi giáo về ông của fatwa. Không có nơi tị nạn nào cho ông ở bất cứ đâu. Mỗi buổi sáng khi nhà văn này ngồi xuống để viết, ông không biết liệu mình có sống qua ngày hay không; ông không biết liệu trang giấy có bao giờ được lấp đầy hay không. Salman Rushdie tình cờ là một nhà văn xuất sắc, và cuốn tiểu thuyết mà vì nó ông bị bêu riếu, Những vần thơ quỷ dữ (The Satanic Verses, 1988), là một sự thăm dò đầy sáng tạo về một trong những kinh nghiệm dữ dội nhất của tồn tại trong thời đại chúng ta, nhân cách cá nhân trong quá trình chuyển dịch giữa hai nền văn hóa được đưa lại với nhau trong một thế giới hậu thuộc địa. Mọi thứ đều được xem xét lại qua sự khúc xạ của trí tưởng tượng; ý nghĩa của tình yêu tính dục và tình thân, các nghi thức chấp nhận xã hội, ý nghĩa của một đức tin tôn giáo hình thành đối với những cá nhân bị tách khỏi tính chủ quan của nó bởi hoàn cảnh đối lập các hệ thống niềm tin khác nhau, tôn giáo và thế tục, trong một bối cảnh sống khác. Cuốn tiểu thuyết của ông là một thần thoại đích thực. Nhưng dù ông đã làm cho ý thức hậu thuộc địa ở châu Âu điều mà Günter Grass (1927 – 2015) đã làm cho ý thức hậu phát xít với Cái trống thiếc (Die Blechtrommel, 1959) và Những năm chó (Dog Years, Hundejahre, 1963), thậm chí có lẽ còn cố tiếp cận điều mà Samuel Beckett (1906 – 1989) đã làm cho nỗi thống khổ hiện sinh của chúng ta với Trong khi chờ đợi Godot (Waiting for Godot, 1953), mức độ thành tựu của ông không nên là điều quan trọng. Ngay cả nếu ông chỉ là một nhà văn tầm thường, hoàn cảnh của ông vẫn là mối quan tâm khủng khiếp của mọi nhà văn đồng nghiệp, bởi ngoài cảnh ngộ cá nhân của ông, nó mang đến những hệ lụy nào, mối đe dọa mới nào chống lại người mang ngôn từ? Đó phải là mối quan tâm của các cá nhân và trên hết, của các chính phủ và các tổ chức nhân quyền trên toàn thế giới. Với các chế độ độc tài dường như đã bị đánh bại, mệnh lệnh giết người mới này, viện dẫn quyền lực của khủng bố quốc tế nhân danh một tôn giáo lớn và đáng kính, nên và chỉ có thể được xử lý bởi các chính phủ dân chủ và Liên Hiệp Quốc như một tội ác chống lại loài người.
Tôi quay lại từ mối đe dọa đơn lẻ khủng khiếp ấy với những mối đe dọa mang tính phổ quát đối với các nhà văn của thế kỷ này, giờ đang ở thập kỷ cuối cùng, tổng kết. Trong các chế độ đàn áp ở bất cứ đâu – dù là ở khối Xô Viết cũ, Mỹ Latinh, châu Phi, Trung Quốc – hầu hết các nhà văn bị cầm tù đều bị giam vì các hoạt động của họ như những công dân đấu tranh cho giải phóng chống lại sự áp bức của xã hội chung mà họ thuộc về. Những người khác bị các chế độ đàn áp kết án vì phục vụ xã hội bằng cách viết hay nhất có thể; bởi cuộc phiêu lưu thẩm mỹ này của chúng ta trở nên lật đổ khi những bí mật đáng xấu hổ của thời đại chúng ta được thăm dò sâu sắc, với sự toàn vẹn phản kháng của nghệ sĩ đối với trạng thái tồn tại được biểu lộ trong đời sống quanh cô ấy hay anh ấy; khi đó các chủ đề và nhân vật của nhà văn tất yếu được hình thành bởi những áp lực và méo mó của xã hội ấy, như đời sống của người đánh cá được quyết định bởi sức mạnh của biển cả.
Có một nghịch lý. Trong việc giữ gìn sự toàn vẹn này, nhà văn đôi khi phải mạo hiểm cả bản cáo trạng phản quốc của nhà nước, lẫn lời phàn nàn về sự thiếu cam kết mù quáng từ các lực lượng giải phóng. Là một con người, không nhà văn nào có thể hạ mình xuống lời dối trá của sự cân bằng kiểu Manichaeus. Quỷ dữ luôn mang chì trong giày, khi được đặt lên phía của nó trên cán cân. Tuy nhiên, để diễn đạt một cách thô mộc châm ngôn của Márquez, được ông đưa ra vừa như một nhà văn vừa như một chiến sĩ cho công lý, nhà văn phải giành lấy quyền thăm dò, với tất cả mụn nhọt, cả kẻ thù lẫn người đồng chí yêu quý, bởi chỉ một nỗ lực hướng tới sự thật mới làm cho tồn tại có ý nghĩa, chỉ một nỗ lực hướng tới sự thật mới tiến gần đến công lý, ngay phía trước con quái thú của Yeats đang lê mình để chào đời. Trong văn chương, từ đời sống,
chúng ta lật qua gương mặt của nhau,
chúng ta đọc trong mỗi ánh mắt nhìn,
…Đã phải mất mạng sống để có thể làm được điều đó.
Đó là lời của nhà thơ Nam Phi và chiến sĩ cho công lý và hòa bình của đất nước chúng tôi, Mongane Wally Serote.
Nhà văn chỉ phục vụ nhân loại trong chừng mực nhà văn sử dụng ngôn từ ngay cả chống lại những trung thành của chính mình, tin cậy vào trạng thái tồn tại, như nó được phơi bày, để ở đâu đó trong sự phức tạp của nó chứa đựng những sợi chỉ của dây thừng chân lý, có thể được buộc lại với nhau, chỗ này chỗ kia, trong nghệ thuật: tin cậy rằng trạng thái tồn tại sẽ nhường ra đâu đó những mảnh vụn của chân lý, thứ là lời cuối cùng của mọi lời, không bao giờ bị thay đổi bởi những nỗ lực vụng về của chúng ta nhằm đánh vần và ghi chép nó, không bao giờ bị thay đổi bởi dối trá, bởi sự ngụy biện ngữ nghĩa, bởi sự làm bẩn ngôn từ cho các mục đích của phân biệt chủng tộc, phân biệt giới tính, định kiến, thống trị, tôn vinh sự hủy diệt, những lời nguyền rủa và những khúc ca tụng.
