Bạch Đằng giang phú (白藤江賦)

Trương Hán Siêu là nhà thơ hàng đầu Việt Nam, một trong những tác phẩm được biết đến rộng rãi của nhà thơ này là Bạch Đằng giang phú (白藤江賦).

| 11 phút đọc | lượt xem.

Bạch Đằng giang phú (白藤江賦)

Qua những hoài niệm về quá khứ, Bạch Đằng giang phú (白藤江賦) đã thể hiện lòng yêu nước và niềm tự hào dân tộc trước chiến công trên sông Bạch Đằng, đồng thời ca ngợi truyền thống anh hùng bất khuất, truyền thống đạo lí nhân nghĩa của dân tộc Việt Nam. Tác phẩm cũng chứa đựng tư tưởng nhân văn cao đẹp qua việc đề cao vai trò, vị trí của con người trong lịch sử.

Bạch Đằng giang phú là đỉnh cao nghệ thuật của thể phú trong văn học trung đại Việt Nam.

Tác giả Trương Hán Siêu

Trương Hán Siêu (? – 1354) tự là Thăng Phủ, người làng Phúc Am, huyện Yên Ninh (nay thuộc thành phố Ninh Bình), vốn là môn khách (khách trong nhà) của Trần Hưng Đạo, đời Trần Anh Tông giữ chức Hàn lâm học sĩ. Năm 1351, ông được thăng Tham tri chính sự. Khi mất, ông được vua tặng tước Thái bảo, Thái phó và được thờ ở Văn Miếu (Hà Nội). Trương Hán Siêu tinh thông cương vực, học vấn uyên thâm, được các vua Trần tin cậy, nhân dân kính trọng. Tác phẩm hiện còn lại không nhiều, trong đó có bài Bạch Đằng giang phú.

Bạch Đằng là một nhánh sông đổ ra biển Đông, nằm giữa Quảng Ninh và Hải Phòng, nơi ghi dấu nhiều chiến công trong lịch sử giữ nước của dân tộc. Đáng nhớ nhất là các trận thủy chiến: năm 938, Ngô Quyền phá tan quân Nam Hán; năm 1288, Trần Quốc Tuấn đánh tan quân Mông – Nguyên. Nhiều tác giả đã viết về đề tài sông Bạch Đằng như: Trần Minh Tông (Bạch Đằng giang), Nguyễn Sưởng (Bạch Đằng giang), Nguyễn Trãi (Bạch Đằng hải khẩu), Nguyễn Mộng Tuân (Hậu Bạch Đằng giang phú)… Trong đó nổi tiếng nhất là Trương Hán Siêu với Bạch Đằng giang phú (Bạch Đằng giang phú). Chưa rõ bài phú được viết năm nào, có lẽ vào khoảng 50 năm sau cuộc kháng chiến chống giặc Mông – Nguyên thắng lợi.

Bạch Đằng giang phú mang những đặc trưng cơ bản của thể phú. Phú là một thể văn cổ văn hoặc xen lẫn văn vần và văn xuôi, dùng để tả cảnh vật, phong tục, kể sự việc, bàn chuyện đời… Một bài phú thường gồm 4 đoạn: đoạn mở, đoạn giải thích, đoạn bình luận và đoạn kết. Bộ cục bài Bạch Đằng giang phú của Trương Hán Siêu cũng giống bộ cục của bài phú nói chung. Nó được làm theo lối phú cổ thể (loại phú có trước thời Đường, có vần, không nhất thiết phải có đối, cuối bài thường được kết lại bằng thơ). Bản dịch dưới đây nói chung theo nguyên điều, chỉ hai bài cuối được chuyển sang thể lục bát.

白藤江賦

客有:

掛汗漫之風帆,

拾浩蕩之海月.

朝嘎舷兮沅湘,

暮幽探兮禹穴.

九江五湖,

三吳百粵.

人跡所至,

靡不經閱.

胸吞雲夢者數百而,

四方壯志猶闕如也.

乃舉楫兮中流,

縱子長之遠遊.

涉大灘口,

溯東潮頭.

抵白藤江,

是泛是浮.

接鯨波於無際,

蘸繇尾之相繆.

水天一色,

風景三秋.

渚获岸蘆,

瑟瑟颼颼.

折戟沉江,

枯骨盈丘.

慘然不樂,

佇立凝眸.

念豪傑之已往,

嘆蹤跡之空留.

江邊父老,

謂我何求.

或扶黎杖,

或棹孤舟.

揖余而言曰:

此重興二聖擒烏馬兒之戰地,

與昔時吳氏破劉弘操之故洲也.

當期:

舳艫千里,

旌旗旖旎.

貔貅六軍,

兵刃蜂起.

雌雄未決,

南北對壘.

日月昏兮無光,

天地凜兮將毀.

彼:

必烈之勢強,

劉龔之計詭.

自謂投鞭,

可掃南紀.

既而:

皇天助順,

凶徒披靡.

孟德赤壁之師談笑飛灰,

符堅合淝之陣須臾送死.

至今江流,

終不雪恥.

再造之功,

千古稱美.

雖然:

自有宇宙,

故有江山.

信天塹之設險,

賴人傑以奠安.

孟津之會鷹揚箬呂,

濰水之戰國士如韓.

惟此江之大捷,

猶大王之賊閒.

英風可想,

口碑不刊.

懷古人兮隕涕,

臨江流兮厚顏.

_行且歌曰:

大江兮滾滾,

洪濤巨浪兮朝宗無盡.

仁人兮聞名,_

匪人兮俱泯.

_客從而賡歌曰:

二聖兮並明,

就此江兮洗甲兵.

_胡塵不敢動兮,千古昇平.

信知:不在關河之險兮,

惟在懿德之莫京.

Bạch Đằng giang phú

Khách hữu:

Quải hạn mạn chi phong phàm,

Thập hạo đãng chi hải nguyệt.

Triêu dát huyền hề Nguyên, Tương,

Mộ u thám hề Vũ huyệt.

Cửu Giang, Ngũ Hồ,

Tam Ngô, Bách Việt.

Nhân tích sở chí,

Mị bất kinh duyệt.

Hung thôn Vân Mộng giả sổ bách nhi,

Tứ phương tráng chí do khuyết như dã.

Nãi cử tiếp hề trung lưu,

Túng Tử Trường chi viễn du.

Thiệp Đại Than khẩu,

Tố Đông Triều đầu.

Để Bạch Đằng giang,

Thị phiếm thị phù.

Tiếp kình ba ư vô tế,

Trám diêu vĩ chi tương mâu.

Thuỷ thiên nhất sắc,

Phong cảnh tam thu.

Chử địch ngạn lô,

Sắt sắt sâu sâu.

Chiết kích trầm giang,

Khô cốt doanh khâu.

Thảm nhiên bất lạc,

Trữ lập ngưng mâu.

Niệm hào kiệt chi dĩ vãng,

Thán tung tích chi không lưu.

Giang biên phụ lão,

Vị ngã hà cầu.

Hoặc phù lê trượng,

Hoặc trạo cô châu.

Ấp dư nhi ngôn viết:

Thử Trùng Hưng nhị thánh cầm Ô Mã Nhi chi chiến địa,

Dữ tích thời Ngô thị phá Lưu Hoằng Thao chi cố châu dã.

Đương kỳ:

Trục lô thiên lý,

Tinh kỳ ỷ nỉ.

Tỳ hưu lục quân,

Binh nhẫn phong khỉ.

Thư hùng vị quyết,

Nam Bắc đối luỹ.

Nhật nguyệt hôn hề vô quang,

Thiên địa lẫm hề tương huỷ.

Bỉ:

Tất Liệt chi thế cường,

Lưu Cung chi kế quỷ.

Tự vị đầu tiên,

Khả tảo Nam kỷ.

Ký nhi:

Hoàng thiên trợ thuận,

Hung đồ phi mỵ.

Mạnh Đức Xích Bích chi sư đàm tiếu phi hôi,

Bồ Kiên Hợp Phì chi trận tu du tống tử.

Chí kim giang lưu,

Chung bất tuyết sỉ.

Tái tạo chi công,

Thiên cổ xưng mỹ.

_Tuy nhiên:

Tự hữu vũ trụ,

Cố hữu giang san.

Tín thiên tạm chi thiết hiểm,

Lại nhân kiệt dĩ điện an.

Mạnh Tân chi hội ưng dương nhược Lã,

Duy Thuỷ chi chiến quốc sĩ như Hàn.

Duy thử giang chi đại tiệp,

Do đại vương chi tặc nhàn.

Anh phong khả tưởng,

Khẩu bi bất san.

Hoài cổ nhân hề vẫn thế,

Lâm giang lưu hề hậu nhan.

_Hành thả ca viết:

Đại giang hề cổn cổn,

Hồng đào cự lãng hề triều tông vô tận.

Nhân nhân hề văn danh,

Phỉ nhân hề câu dẫn.

Khách tòng nhi canh ca viết:

Nhị thánh hề tịnh minh,

Tựu thử giang hề tẩy giáp binh.

Hồ trần bất cảm động hề, thiên cổ thăng bình.

Tín tri: bất tại quan hà chi hiểm hề,

Duy tại ý đức chi mạc kinh.

Bản dịch của Đông Châu, Bùi Văn Nguyên

Khách có kẻ:

Giương buồm giong gió chơi vơi,

Lướt bể chơi trăng mải miết.

Sớm gõ thuyền chừ Nguyên Tương,

Chiều lần thăm chừ Vũ huyệt.

Cửu Giang, Ngũ Hồ,

Tam Ngô, Bách Việt.

Nơi có người đi,

Đâu mà chẳng biết.

Đầm Vân Mộng chứa vài trăm trong dạ cũng nhiều,

Mà tráng chí bốn phương vẫn còn tha thiết.

Bèn giữa dòng chừ buông chèo,

Học Tử Trường chừ thú tiêu dao.

Qua cửa Đại Than,

Ngược bến Đông Triều,

Đến sông Bạch Đằng,

Thuyền bơi một chiều.

Bát ngát sóng kình muôn dặm,

Thướt tha đuôi trĩ một màu.

Nước trời một sắc,

Phong cảnh ba thu.

Bờ lau san sát,

_Bến lách đìu hiu

Sông chìm giáo gãy,

Gò đầy xương khô.

Buồn vì cảnh thảm,

Đứng lặng giờ lâu.

Thương nỗi anh hùng đâu vắng tá,

Tiếc thay dấu vết luống còn lưu.

Bên sông bô lão hỏi,

Hỏi ý ta sở cầu.

Có kẻ gậy lê chống trước,

Có người thuyền nhẹ bơi sau.

_Vái ta mà thưa rằng:

Đây là chiến địa buổi trùng hưng nhị thánh bắt Ô Mã,

Cũng là bãi đất xưa, thuở trước Ngô chúa phá Hoằng Thao.

Đương khi ấy:

Thuyền tàu muôn đội,

Tinh kì phấp phới.

Hùng hổ sáu quân,

Giáo gươm sáng chói.

Trận đánh được thua chửa phân,

Chiến luỹ bắc nam chống đối.

Ánh nhật nguyệt chừ phải mờ,

Bầu trời đất chừ sắp đổi.

Kìa:

Tất Liệt thế cường,

Lưu Cung chước dối.

Những tưởng gieo roi một lần,

Quét sạch Nam bang bốn cõi.

Thế nhưng:

Trời cũng chiều người,

_Hung đồ hết lối

Trận Xích Bích, quân Tào Tháo tan tác tro bay,

Trận Hợp Phì, giặc Bồ Kiên hoàn toàn chết trụi.

Đến nay sông nước tuy chảy hoài,

Mà nhục quân thù khôn rửa nổi.

Tái tạo công lao,

Nghìn xưa ca ngợi.

Tuy nhiên:

Từ có vũ trụ,

Đã có giang san.

Quả là: trời đất cho nơi hiểm trở,

_Cũng nhờ: nhân tài giữ cuộc điện an!

Hội nào bằng hội Mạnh Tân, có vương sư họ Lã,

Trận nào bằng trận Duy Thuỷ, có quốc sĩ họ Hàn.

Khi trận Bạch Đằng mà đại thắng,

Bởi đại vương coi thế giặc nhàn.

Tiếng thơm còn mãi,

Bia miệng không mòn.

Đến chơi sông chừ ủ mặt,

Nhớ người xưa chừ lệ chan.

_Rồi vừa đi vừa ca rằng:

Sông Đằng một dải dài ghê,

Sóng hồng cuồn cuộn tuôn về bể Đông.

Những người bất nghĩa tiêu vong,

Nghìn thu chỉ có anh hùng lưu danh!

Khách cũng nối tiếp mà ca rằng:

Anh minh hai vị thánh quân,

Sông đây rửa sạch mấy lần giáp binh.

Giặc tan muôn thuở thanh bình,

Bởi đâu đất hiểm, cốt mình đức cao.

Bản dịch của Đông Châu

Khách có kẻ:

Chèo quế bơi trăng,

Buồm mây giong gió,

Sớm ngọn Tương kia,

Chiều hang Vũ nọ,

Vùng vẫy Giang, Hồ,

Tiêu dao Ngô, Sở,

Đi cho biết đây,

Đi cho biết đó.

Chằm Vân, Mộng chứa ở trong kho tư tưởng, đã biết bao nhiêu:

Mà cái chí khí tứ phương, vẫn còn hăm hở,

Mới học thói Tử Trường,

Bốn bể ngao du,

Qua cửa Đại Thần,

Sang bến Đông Triều,

Đến sông Bạch Đằng,

Đủnh đỉnh phiếm chu,

Trắng xoá sóng kình muôn dặm,

Xanh rì dặng ác một màu,

Nước trời lộn sắc,

Phong cảnh vừa thu,

Ngàn lau quạnh cõi,

Bến lách đìu hiu,

Giáo gãy đầy sông,

Cốt khô đầy gò,

Ngậm ngùi đứng lặng,

_Ngắm cuộc phù du

Thương kẻ anh hùng đâu vắng tá?,

Mà đây dấu vết vẫn còn lưu,

Kìa kìa bên sông, lão phủ người đâu?

Lượng trong bụng ta, chừng có sở cầu,

Hoặc gậy chống trước, hoặc thuyền bơi sau.

Vái tạ mà thưa rằng:

Đây là chỗ chiến địa của vua Trần bắt giặc Nguyên,

Và là nơi cố châu của vua Ngô phá quân Lưu đấy.

_Đương khi:

Muôn đội thuyền bày, hai quân giáo chỉ,

Guơm tuốt sáng loè, cờ bay đỏ khé,

Tướng Bắc quân Nam,

Đôi bên đối luỹ,

Đã nổi gió mà bay mây,

Lại kinh thiên mà động địa,

Kìa Nam Hán nó mưu sâu,

Nọ Hồ Nguyên nó sức khoẻ.

Nó bảo rằng:

Phen này đạp đổ nước Nam, tưởng chừng cũng dễ.

May thay:

_Trời giúp quân ta

_Mây tan trận nó

Khác nào như:

Quân Tào Tháo bị vỡ ở sông Xích Bích khi xưa.

Giặc Bồ Kiên bị tan ở bến Hợp Phì thuở nọ,

Ấy cái nhục tầy trời của họ, há những một thời,

Mà cái công tái tạo của ta, lưu danh thiên cổ,

Tuy vậy, từ thuở có trời có đất, vẫn có giang san,

Trời đất ra nơi hiểm trở,

Người tính lấy cuộc tôn an,

Hội nào bằng hội Mạnh Tân như vương sư họ Lã,

Trận nào bằng trận Duy Thuỷ như quốc sĩ họ Hàn.

Kìa trận Bạch Đằng này mà đại thắng,

Bởi chưng Đại vương coi thế giặc nhàn,

Tiếng thơm còn mãi,

Bia miệng bao mòn,

Nhớ ai sa giọt lệ,

Hổ mình với nước non.

Rồi vừa đi vừa hát rằng,

Sông Đằng một giải dài ghê,

Luồng to sóng lớn dồn về bể Đông,

Trời Nam sinh kẻ anh hùng,

Tăm kình yên lặng, non sông vững vàng,

Khách lại nối mà hát rằng,

Triều ta hai vị thánh nhân,

Sông kia còn dấu tẩy trần giáp binh,

Nghìn xưa gẫm cuộc thăng binh,

Tại đâu đất hiểm, bởi mình đức cao.

Bạch Đằng giang phú (白藤江賦) 028 – thu vien, van hoc, van hoc viet nam, ngu van lop 10, tho ca, truong han sieu, bach dang giang phu, bach dang giang, van hoc trung dai, tho, tho cap 3, tho lop 10.
Bạch Đằng giang phú (白藤江賦).
0%

Chuyên mục bach-dang-giang

Bạch Đằng giang phú (白藤江賦)

Bạch Đằng giang phú (白藤江賦)

Trương Hán Siêu là nhà thơ hàng đầu Việt Nam, một trong những tác phẩm được biết đến rộng rãi của nhà thơ này là Bạch Đằng giang phú (白藤江賦).

Chuyên mục van-hoc-viet-nam

Lịch sử Hội Nhà văn Việt Nam

Lịch sử Hội Nhà văn Việt Nam

Hội Nhà văn Việt Nam là tổ chức chính trị – xã hội – nghề nghiệp tự nguyện của công dân Việt Nam hoạt động trong sáng tác, dịch thuật, phê bình văn học.

Quá trình sáng tác là gì?

Quá trình sáng tác là gì?

Quá trình sáng tác là ghi chép suy nghĩ, kết hợp tinh tế trải nghiệm sống, tri thức tích lũy, kỹ năng nghệ thuật và khả năng quan sát đời sống xung quanh.

Khoảng trời, hố bom

Khoảng trời, hố bom

Lâm Thị Mỹ Dạ là nữ nhà thơ của vùng đất Quảng Bình nhưng tài năng thơ của chị nổi tiếng khắp cả nước, nổi tiếng với Khoảng trời, hố bom.

Ai đã đặt tên cho dòng sông

Ai đã đặt tên cho dòng sông

Trong những dòng sông đẹp ở các nước mà tôi thường nghe nói đến, hình như chỉ sông Hương là thuộc về một thành phố duy nhất, ai đã đặt tên cho dòng sông.

Tương tư

Tương tư

Nguyễn Bính là nhà thơ hàng đầu của Việt Nam, một trong những tác phẩm được biết đến rộng rãi của nhà thơ này là Tương tư.

Chữ người tử tù

Chữ người tử tù

Nguyễn Tuân là nhà thơ hàng đầu của Việt Nam, một trong những tác phẩm được biết đến rộng rãi của nhà thơ này là Chữ người tử tù.

Theo dõi hành trình

Hãy để lại thông tin, khi có gì mới thì Nhavanvn sẽ gửi thư đến bạn để cập nhật. Cam kết không gửi email rác.

Họ và tên

Email liên lạc

Đôi dòng chia sẻ