Nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường – Bút ký chất Huế
Hoàng Phủ Ngọc Tường (1937 – 2018) là một trong những nhà văn tiêu biểu của văn học miền Trung, được biết đến như một cây bút tài hoa.
| 24 phút đọc | lượt xem.
Hoàng Phủ Ngọc Tường (1937 – 2018) là một trong những nhà văn tiêu biểu của văn học miền Trung, được biết đến như một cây bút tài hoa với những tác phẩm bút ký đặc sắc và thơ ca sâu sắc.
Tiểu sử tác giả
Hoàng Phủ Ngọc Tường (1937 – 2018) là một trong những nhà văn tiêu biểu của văn học miền Trung, được biết đến như một cây bút tài hoa với những tác phẩm bút ký đặc sắc và thơ ca sâu sắc. Nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường quê gốc làng Bích Khê, xã Triệu Long (Triệu Phong, Quảng Trị).
Cuộc đời ông gắn liền với vùng đất cố đô Huế và những biến động lịch sử của dân tộc, từ thời kháng chiến chống Pháp, cuộc đấu tranh chống chế độ Ngô Đình Diệm cho đến kháng chiến chống Mỹ. Thông qua hành trình sáng tác kéo dài hơn nửa thế kỷ, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã để lại cho văn học Việt Nam những tác phẩm giá trị, đặc biệt trong thể loại bút ký và thơ ca, với phong cách kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất trí tuệ triết học và tình cảm trữ tình sâu lắng.
Giai đoạn tuổi trẻ và quá trình học tập
Thời trẻ, Hoàng Phủ Ngọc Tường sinh sống và học tập tại Huế. Sau khi học hết bậc trung học ở Huế, ông chuyển vào Thành phố Hồ Chí Minh học tại trường Đại học Sư phạm Sài Gòn. Giai đoạn này đánh dấu sự hình thành nền tảng học vấn vững chắc cho nhà văn tương lai. Môi trường giáo dục tại cố đô Huế với truyền thống văn hóa học thuật lâu đời đã ảnh hưởng sâu sắc đến tư duy và phong cách sáng tác sau này của ông.
Năm 1960, ông tốt nghiệp khóa I ban Việt Hán – Đại học Sư phạm Sài Gòn. Sau đó ông quay trở lại Huế, tiếp tục việc học tại trường Đại học Văn khoa Huế. Năm 1964, ông chính thức tốt nghiệp và nhận bằng cử nhân Triết học tại ngôi trường này. Việc theo học hai ngành Việt Hán và Triết học đã trang bị cho Hoàng Phủ Ngọc Tường một nền tảng tri thức đa dạng và sâu rộng.
Nền tảng triết học đặc biệt quan trọng, đã hình thành tư duy luận lý và khả năng tư biện biện chứng trong các tác phẩm văn học của ông. Sự am hiểu văn hóa Việt Nam truyền thống thông qua việc nghiên cứu Việt Hán cũng góp phần tạo nên độ sâu văn hóa đặc trưng trong các bài viết của ông.

Thời gian học tập này cũng là lúc Hoàng Phủ Ngọc Tường bắt đầu tham gia vào các hoạt động xã hội và chính trị. Với ý thức phản tỉnh cùng với kiến văn uyên áo và tư duy luận lý của một nhà nghiên cứu triết học (Hoàng phủ Ngọc Tường tốt nghiệp Đại học sư phạm Sài Gòn khóa 1, ban Việt – Hán năm 1960; Cử nhân triết Đại học Văn khoa Huế năm 1964) và sự tinh tế của một thi nhân, ông đã sớm có những nhận thức sâu sắc về thời cuộc và vấn đề xã hội.
Hoạt động chính trị và tham gia cách mạng
Giai đoạn từ những năm 1960, Hoàng Phủ Ngọc Tường tích cực tham gia vào phong trào đấu tranh chống chế độ Ngô Đình Diệm. Trong suốt 3 năm tham gia tranh đấu từ 1963 đến 1966, ông và em trai Hoàng Phủ Ngọc Phan đã trở thành những nhân vật nổi bật trong phong trào đô thị tại Huế.
Đặc biệt, họ tham gia tích cực vào cuộc đấu tranh bảo vệ linh mục Cao Văn Luận – Viện trưởng Đại học Huế khi ông bị chính quyền Diệm cách chức.
Sau khi bị lùng bắt ráo riết, Hoàng Phủ Ngọc Tường và Hoàng Phủ Ngọc Phan đã phải thoát ly ra chiến khu để tiếp tục hoạt động cách mạng. Những cái tên như Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoàng Phủ Ngọc Phan bị truy nã hàng ngày được đọc ra rả trên hệ thống phát thanh công cộng.
Giai đoạn này đánh dấu sự chuyển biến quan trọng trong cuộc đời của nhà văn, từ một trí thức đô thị trở thành người chiến sĩ cách mạng trực tiếp tham gia cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
Thời gian hoạt động trong chiến khu đã mang lại cho Hoàng Phủ Ngọc Tường những trải nghiệm sâu sắc về cuộc sống, con người và thực tế xã hội. Những trải nghiệm này sau này trở thành nguồn cảm hứng bất tận cho các tác phẩm văn học của ông, đặc biệt là những bài bút ký nổi tiếng về thiên nhiên, con người và đất nước.
Tác phẩm tiêu biểu
Viết văn, làm thơ tuy nhiên Hoàng Phủ Ngọc Tường được đánh giá cao nhất ở mảng bút ký. Kho tàng tác phẩm của ông phong phú và đa dạng, bao gồm bút ký, thơ ca, tiểu luận và tản văn. Mỗi thể loại đều mang dấu ấn riêng biệt của một tài năng sáng tạo đa diện, nhưng đều thống nhất trong cách tiếp cận triết học và tính chất nhân văn sâu sắc.
Những tác phẩm của ông không chỉ phản ánh một cách chân thực cuộc sống và con người Việt Nam trong những thời kỳ lịch sử quan trọng, mà còn thể hiện tầm nhìn triết học sâu sắc về ý nghĩa cuộc sống và vị trí con người trong vũ trụ.
Những tác phẩm bút ký nổi tiếng
Ông là chủ nhân của rất nhiều tác phẩm ký được yêu thích có thể kể đến như Ngôi sao trên đỉnh Phu Văn Lâu (1971), Rất nhiều ánh lửa (1979), Ai đã đặt tên cho dòng sông (1984), Bản di chúc của cỏ lau (1984), Hoa trái quanh tôi (1995), Huế – di tích và con người (1995), Miền cỏ thơm (2007).
Trong số này, Ai đã đặt tên cho dòng sông được xem là kiệt tác của thể loại bút ký Việt Nam, với sự kết hợp độc đáo giữa tự sự cá nhân và tư duy triết học về mối quan hệ giữa con người và thiên nhiên.
Tác phẩm Ngôi sao trên đỉnh Phu Văn Lâu (1971) đánh dấu bước trưởng thành đầu tiên trong sự nghiệp sáng tác của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Cuốn sách thể hiện khả năng quan sát tinh tế và tài năng miêu tả của một cây bút trẻ, với những câu chuyện về thiên nhiên và con người miền Trung được kể một cách sinh động và đầy cảm xúc.
Rất nhiều ánh lửa (1979) tiếp tục khẳng định tài năng của ông trong việc kết hợp yếu tố tự sự với chiêm nghiệm triết học, tạo nên những trang viết vừa có tính văn chương cao vừa mang giá trị tư tưởng sâu sắc.
Bản di chúc của cỏ lau (1984) và Hoa trái quanh tôi (1995) thể hiện sự trưởng thành về mặt tư tưởng của nhà văn. Trong những tác phẩm này, ông không chỉ dừng lại ở việc miêu tả và tự sự, mà còn đi sâu vào những vấn đề triết học về ý nghĩa cuộc sống, mối quan hệ giữa con người với thiên nhiên và xã hội.
Huế – di tích và con người (1995) là tác phẩm đặc biệt thể hiện tình yêu quê hương và sự hiểu biết sâu sắc về văn hóa truyền thống. Miền cỏ thơm (2007) là tác phẩm cuối đời, tổng kết những suy ngẫm của một đời người về thiên nhiên, con người và cuộc sống.
Thơ ca và các tác phẩm khác
Ông sắc tác nhiều tác phẩm thơ như Những dấu chân qua thành phố (1976), Người hái phù dung (1992). Thơ Hoàng Phủ Ngọc Tường mang đậm chất triết lý và tính nội tâm. Với tâm cảm của một văn thi sĩ tài năng, cùng tư duy của một người đam mê triết học, thơ Hoàng Phủ Ngọc Tường là thơ của một độ chín tư duy và chiều sâu tâm hồn, là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa lý trí và tình cảm.
Những dấu chân qua thành phố (1976) ra đời trong bối cảnh hậu chiến, phản ánh những suy tư của nhà thơ về cuộc sống thời bình sau những năm tháng chiến tranh khốc liệt.
Tác phẩm thể hiện sự chuyển đổi tâm trạng từ những ca khúc hùng ca thời kháng chiến sang những suy ngẫm sâu sắc về ý nghĩa cuộc sống và thân phận con người. Người hái phù dung (1992) đánh dấu sự chuyển biến quan trọng trong thơ ca của ông, khi tập trung vào chủ đề về nỗi buồn và sự phù du của cuộc đời.

Nỗi buồn trong thơ Hoàng Phủ Ngọc Tường không chỉ là sự kết tinh của cảm xúc mà còn là sự kết tinh những suy niệm của ông về lẽ biến dịch của phận người trong kiếp nhân sinh.
Điều này thể hiện rõ trong những bài thơ như Dù năm dù tháng, Dạ khúc, Địa chỉ buồn, nơi thi nhân thể hiện cảm thức về sự vô thường của cuộc đời và nỗi cô đơn bản thể của con người trong vũ trụ bao la.
Ngoài thơ và bút ký, Hoàng Phủ Ngọc Tường còn có những tác phẩm tiểu luận và tản văn thể hiện tầm nhìn rộng và kiến thức uyên bác. Vì vậy, vợ ông – nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ – trở thành thư ký riêng của chồng. Bà ghi chép cần mẫn bản thảo của gần chục đầu sách văn xuôi, gồm bút ký, tiểu luận, tản văn của chồng trong những năm cuối đời khi ông bị bệnh tật.
Đặc điểm nghệ thuật trong tác phẩm
Nét đặc sắc trong sáng tác của ông đến từ sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất trí tuệ và chất trữ tình, giữa nghị luận sắc bén với suy tư đa chiều được tổng hợp từ vốn kiến thức phong phú về triết học, văn hóa, lịch sử, địa lý. Điều này tạo nên một phong cách sáng tác độc đáo, vừa có tính học thuật vừa có tính nghệ thuật cao.
Trong các tác phẩm bút ký, Hoàng Phủ Ngọc Tường thường sử dụng phương pháp kết hợp nhiều lớp ý nghĩa. Từ những sự việc, hiện tượng cụ thể trong đời sống, ông có thể nâng lên thành những suy ngẫm triết học sâu sắc về bản chất cuộc sống và vị trí con người trong vũ trụ.
Ngôn ngữ của ông vừa trong sáng, giản dị vừa giàu hình ảnh và biểu tượng. Cách diễn đạt mang đậm chất thơ ca, tạo nên sức hấp dẫn đặc biệt cho người đọc.
Sức ảnh hưởng của nhà văn
Hoàng Phủ Ngọc Tường để lại những ảnh hưởng sâu rộng trong nhiều lĩnh vực của đời sống văn hóa và xã hội Việt Nam.
Sự nghiệp sáng tác kéo dài hơn nửa thế kỷ của ông không chỉ góp phần làm phong phú kho tàng văn học dân tộc mà còn định hướng cho nhiều thế hệ nhà văn trẻ về cách tiếp cận và thể hiện nghệ thuật. Tầm ảnh hưởng của ông vượt ra ngoài phạm vi văn chương, lan tỏa vào giáo dục, văn hóa và tư tưởng xã hội, tạo nên một hiện tượng văn hóa đáng chú ý trong lịch sử văn học Việt Nam đương đại.
Ảnh hưởng trong lĩnh vực văn học
Nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường viết bút ký rất hay. Lời văn cuồn cuộn chất liệu của cuộc sống, sự liên tưởng các sự kiện luôn dồi dào và phong phú đem đến cho người đọc nhiều cảm hứng thú vị, nhà văn Trần Nguyên Vấn cho biết. Đây là minh chứng cho tác động mạnh mẽ của phong cách sáng tác Hoàng Phủ Ngọc Tường đối với giới văn chương đương thời.
Hoàng Phủ Ngọc Tường đã góp phần định hình và phát triển thể loại bút ký Việt Nam hiện đại. Cách tiếp cận của ông, kết hợp giữa tự sự cá nhân với triết lý nhân sinh, đã mở ra một hướng mới cho thể loại này. Nhiều nhà văn trẻ đã học hỏi và vận dụng phong cách của ông trong các tác phẩm của mình. Điều này đặc biệt rõ nét ở việc kết hợp yếu tố tri thức với cảm xúc, tạo nên những tác phẩm vừa có chiều sâu tư tưởng vừa có sức hấp dẫn nghệ thuật.
Trong thơ ca, thơ Hoàng Phủ Ngọc Tường là thơ của một độ chín tư duy và chiều sâu tâm hồn, là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa lý trí và tình cảm. Cách tiếp cận này đã ảnh hưởng đến nhiều thi sĩ, đặc biệt trong việc thể hiện những vấn đề triết học qua ngôn ngữ thơ ca. Ông đã chứng minh rằng thơ có thể vừa mang tính triết lý sâu sắc vừa giữ được vẻ đẹp nghệ thuật của mình.
Vai trò trong các tổ chức văn học
Ông viết văn và viết báo từ khi còn rất trẻ, sau này từng nắm giữ nhiều chức vụ: Tổng thư ký Hội Văn học nghệ thuật Bình – Trị – Thiên, Tổng thư ký Liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ và hoà bình Thành phố Huế, Chủ tịch Hội Văn học nghệ thuật Bình – Trị – Thiên, Tổng biên tập tạp chí Sông Hương, Chủ tịch Hội Văn nghệ Quảng Trị, Tổng biên tập tạp chí Cửa Việt. Những vai trò lãnh đạo này cho thấy tầm quan trọng của ông trong đời sống văn học miền Trung và cả nước.
Qua công tác tại các tạp chí văn học quan trọng như Sông Hương và Cửa Việt, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã có cơ hội phát hiện và bồi dưỡng nhiều tài năng văn học trẻ. Ông đã góp phần định hướng cho phong trào văn học miền Trung, tạo điều kiện cho nhiều tác giả trẻ được công bố tác phẩm và phát triển tài năng. Việc ông đảm nhiệm các chức vụ lãnh đạo trong các hội văn học nghệ thuật cũng thể hiện sự tin tưởng của cộng đồng văn học đối với tầm nhìn và khả năng của ông.
Thông qua các hoạt động tổ chức và biên tập, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã góp phần xây dựng một môi trường văn học sôi nổi và đa dạng ở miền Trung. Ông không chỉ là một nhà sáng tác tài năng mà còn là một nhà tổ chức văn học có tầm nhìn, đã để lại những đóng góp quan trọng cho sự phát triển của văn học vùng và cả nước.
Tác động đến tư tưởng và văn hóa xã hội
Nhớ đến ông Tường trước hết phải nhắc tới thầy giáo dạy triết học, từng hoạt động trên chiến khu rồi mới bắt đầu làm thơ, viết ký. Sở dĩ tác phẩm ký của ông được đánh giá cao là nhờ chiều sâu triết lý. Điều này thể hiện rất rõ trong những tác phẩm như Ai đã đặt tên cho dòng sông, Miền gái đẹp…, nhà văn Ngô Thảo nhận định. Đánh giá này cho thấy Hoàng Phủ Ngọc Tường không chỉ đóng góp về mặt nghệ thuật mà còn về mặt tư tưởng triết học.
Các tác phẩm của ông đã góp phần mở rộng tầm nhìn triết học trong văn học Việt Nam. Thông qua cách tiếp cận đa chiều, kết hợp giữa triết học Đông Tây, ông đã giúp độc giả có cái nhìn sâu sắc hơn về những vấn đề cơ bản của cuộc sống như ý nghĩa tồn tại, mối quan hệ giữa con người với thiên nhiên, và vấn đề về cái đẹp trong nghệ thuật. Điều này đặc biệt có ý nghĩa trong bối cảnh văn học Việt Nam đang tìm kiếm những hướng tiếp cận mới sau những biến động lịch sử lớn.
Nỗi buồn trong thơ Hoàng Phủ Ngọc Tường là những nỗi buồn đẹp, lấp lánh sắc màu tâm cảm và tư duy triết học. Cách tiếp cận này đã ảnh hưởng đến tư duy thẩm mỹ của nhiều thế hệ độc giả và nhà văn, giúp họ nhìn nhận cái đẹp không chỉ ở những điều tích cực mà cả trong những cảm xúc sâu lắng như nỗi buồn và sự cô đơn.
Đánh giá trên văn đàn và trong lòng độc giả
Hoàng Phủ Ngọc Tường đã nhận được sự ghi nhận cao từ cả giới chuyên môn và công chúng độc giả. Vị thế của ông trong văn đàn Việt Nam được khẳng định qua nhiều giải thưởng danh giá và sự đánh giá tích cực từ các nhà phê bình văn học hàng đầu. Đồng thời, tác phẩm của ông cũng được độc giả yêu mến và trân trọng, thể hiện qua việc các tác phẩm liên tục được tái bản và sử dụng rộng rãi trong giảng dạy. Sự kết hợp giữa giá trị nghệ thuật cao và khả năng tiếp cận rộng rãi với công chúng là một trong những thành tựu đáng chú ý của nhà văn.
Những giải thưởng và ghi nhận
Với nhiều đóng góp cho văn chương, ông được nhiều trao giải thưởng như Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam năm 1980, Tặng thưởng Văn học Ủy ban toàn quốc Liên hiệp Các hội Văn học nghệ thuật Việt Nam năm 1999, 2008, giải A Giải thưởng Văn học nghệ thuật Cố đô (1998 – 2003), Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật năm 2007 – cùng đợt với nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ. Đây là minh chứng rõ ràng cho sự ghi nhận của cộng đồng văn học và nhà nước đối với những đóng góp của ông.
Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam năm 1980 đánh dấu sự công nhận đầu tiên từ cộng đồng văn học chuyên nghiệp về tài năng sáng tác của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Đây là thời điểm ông đã khẳng định được vị thế của mình trong thể loại bút ký với những tác phẩm có chiều sâu nghệ thuật và tư tưởng. Tặng thưởng Văn học của Liên hiệp Các hội Văn học nghệ thuật Việt Nam trong các năm 1999 và 2008 cho thấy sự đánh giá tích cực liên tục về chất lượng tác phẩm của ông qua các giai đoạn sáng tác khác nhau.

Giải A Giải thưởng Văn học nghệ thuật Cố đô (1998 – 2003) có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, không chỉ vì đây là giải thưởng cao quý mà còn vì nó gắn liền với vùng đất Huế – nơi ông gắn bó và cống hiến cả cuộc đời. Giải thưởng này thể hiện sự ghi nhận của quê hương đối với những đóng góp của ông cho văn hóa địa phương và dân tộc.
Đỉnh cao của sự ghi nhận chính thức là Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật năm 2007, một trong những giải thưởng cao quý nhất mà một nhà văn có thể đạt được. Việc ông nhận giải cùng với vợ mình – nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ – càng làm tăng ý nghĩa đặc biệt của vinh dự này.
Ngoài các giải thưởng chính thức, Hoàng Phủ Ngọc Tường còn nhận được nhiều hình thức ghi nhận khác từ cộng đồng văn học. Tác phẩm của ông thường xuyên được đưa vào các tuyển tập văn học quan trọng, được nghiên cứu trong các luận văn, luận án và các công trình nghiên cứu văn học. Điều này chứng tỏ giá trị học thuật và nghệ thuật bền vững của những tác phẩm ông để lại.
Đánh giá từ giới phê bình văn học
Nhà thơ Nguyễn Quang Thiều – Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam – cho biết nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường thuộc thế hệ nhà văn sống trong những năm tháng chiến tranh tàn khốc, nhiều đau thương, nhưng ông đã viết như không thể sống mà không viết. Đánh giá này từ một trong những nhà lãnh đạo văn học hàng đầu của đất nước cho thấy tầm quan trọng của Hoàng Phủ Ngọc Tường trong bức tranh văn học Việt Nam đương đại.

Các nhà phê bình văn học đã đánh giá cao khả năng kết hợp giữa tri thức và cảm xúc trong tác phẩm của ông. Họ nhận xét rằng văn chương Hoàng Phủ Ngọc Tường, trong đó có thơ ca đều bắt nguồn từ một quá trình nghiệm sinh với những ngẫm ngợi về những chiều kích khác nhau trước hiện thực đời sống nên tư duy sáng tạo nghệ thuật của Hoàng Phủ Ngọc Tường là tư duy triết luận thấm đượm tinh thần duy mỹ (aestheticism). Điều này tạo nên một phong cách sáng tác độc đáo, khác biệt so với nhiều nhà văn cùng thời.
Nhà văn Ngô Thảo đã nhận xét: Thôi cũng là là đôi đẹp rồi. Hai người trái tính nhau nhưng vẫn đi cùng nhau suốt 50 năm qua. Lâm Thị Mỹ Dạ hiền lành, hầu hạ chồng hết mức cho đến những năm tháng cuối đời. Hoàng Phủ Ngọc Tường ra đi sau vợ cũng là được rồi. Đánh giá này không chỉ về con người mà còn về nghị lực sáng tác của ông, khi dù bị bệnh tật nhưng vẫn kiên trì với công việc sáng tác đến những ngày cuối đời.
Sự tiếp nhận trong giáo dục và đời sống xã hội
Là một nhà văn với những trang bút ký đặc sắc và tài hoa, ngọt ngào như nước sông Hương, dịu êm như mây trời xứ Huế nhưng cũng không kém phần dữ dội và mãnh liệt khi ông tuyên chiến với cái xấu, cái ác. Hoàng Phủ Ngọc Tường đã có một vị trí xứng đáng trên văn đàn, tác phẩm của ông được đưa vào sách giáo khoa để giảng dạy trong nhà trường từ nhiều năm. Đây là minh chứng rõ ràng nhất cho giá trị giáo dục và tác động tích cực của tác phẩm ông đối với các thế hệ học sinh, sinh viên.
Đặc biệt, bút ký Ai đã đặt tên cho dòng sông của ông luôn trở thành ngữ liệu cho các kỳ thi trung học phổ thông và thi vào đại học. Việc một tác phẩm được lựa chọn làm đề tài thi quan trọng như vậy chứng tỏ giá trị văn học và giáo dục đặc biệt của nó. Tác phẩm này không chỉ được đánh giá cao về mặt nghệ thuật mà còn có khả năng kiểm tra toàn diện năng lực ngôn ngữ, tư duy và cảm thụ nghệ thuật của học sinh.
Việc tác phẩm Hoàng Phủ Ngọc Tường được đưa vào chương trình giáo dục có ý nghĩa rất lớn trong việc định hướng thẩm mỹ và tư duy cho các thế hệ trẻ. Qua những trang viết của ông, học sinh không chỉ học được cách sử dụng ngôn ngữ một cách tinh tế và biểu cảm mà còn được tiếp xúc với những suy ngẫm sâu sắc về cuộc sống, thiên nhiên và con người. Điều này góp phần hình thành nhân cách và tư duy cho thế hệ tương lai.
Tình cảm của độc giả và di sản tinh thần
Nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường lặng lẽ rời cõi tạm chỉ 18 ngày sau vợ ông – nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ về miền mây trắng, vào năm 2018. Sự ra đi của nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường là nỗi tiếc nhớ của giới văn chương, nhưng suy cho cùng ông đã được giải thoát khỏi bệnh tật, được đoàn tụ với người vợ hiền lành ở cõi khác. Cách nhìn nhận này của độc giả và bạn bè thể hiện tình cảm sâu sắc mà họ dành cho nhà văn.
Trong đời sống, Hoàng Phủ Ngọc Tường đậm chất thẳng thắn của con người gốc Quảng Trị, dám nói thẳng, nói thật nhiều điều nhưng vẫn được nhiều người yêu mến. Điều này cho thấy ông không chỉ được trân trọng vì tài năng mà còn vì nhân cách và phẩm chất con người. Nhà văn Trần Nguyên Vấn, người bạn cùng trường với ông, đã chia sẻ: Nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường là trí thức uyên bác, sống nhiệt tình với bè bạn và hết lòng vì công việc chung. Ông không phải là người khó tính mà luôn gần gũi chan hòa với bạn bè.
Di sản tinh thần mà Hoàng Phủ Ngọc Tường để lại không chỉ là những tác phẩm văn học mà còn là một cách sống, một thái độ đối với nghệ thuật và cuộc đời. Ông đã chứng minh rằng một nhà văn có thể vừa có chiều sâu triết học vừa có tính nhân văn cao, vừa có tài năng nghệ thuật vừa có trách nhiệm xã hội. Nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường lâm bạo bệnh vào năm 1998, nhưng ông không chịu buông bút, nhiều hình ảnh, nhân vật, ý tưởng đang muốn trỗi dậy, ông luôn muốn được thể hiện hình ảnh đó trên trang viết. Nghị lực sáng tác này đã trở thành nguồn cảm hứng cho nhiều nhà văn và nghệ sĩ khác.

Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật Thừa Thiên – Huế và gia đình phối hợp tổ chức lễ tưởng niệm từ 14h ngày 30/07 đến hết 31/07 tại trụ sở Liên hiệp (Thành phố Huế). Vợ chồng họ được an táng tại nghĩa trang cách sông Hương khoảng 2km, gần đồi Vọng Cảnh.
Việc tổ chức lễ tưởng niệm long trọng và nơi an nghỉ cuối cùng bên dòng sông Hương thơ mộng thể hiện tình cảm và sự tôn trọng mà cộng đồng văn học và nhân dân Huế dành cho nhà văn. Đây cũng là biểu tượng cho mối gắn bó sâu sắc giữa ông và vùng đất cố đô, nơi đã nuôi dưỡng tài năng và là nguồn cảm hứng bất tận cho sự nghiệp sáng tác của ông.
